Năm Hợi kể chuyện về lão Trư
Đức Phật dạy rằng: người thiểu trí, khi hôn mê, tham ăn, thích ngủ, ngã lăn nằm dài như con heo to mà người ta nuôi bằng thức ăn thừa - người ấy sẽ tái sanh trở đi trở lại mãi mãi triền miên.
Một năm cũ sắp trôi qua, rồi một năm mới lại về, chúng ta sắp đón một cái Tết Nguyên Đán, một năm mới - năm Đinh Hợi 2019. Theo Thập nhị chi, Hợi là con vật được xếp cuối cùng trong hệ 12 con giáp của một chi theo Âm lịch. Tương truyền, ngày xưa Ngọc Hoàng mở đại hội và triệu tập tất cả các loài vật, nhưng chỉ có 12 con vật trong Thập nhị chi đến phân công việc. Con chuột (Tý) là con vật đến sớm nhất nên đứng đầu bảng Địa chi và con heo (Hợi) có lẽ vì ủn ỉn, chậm chạp nên đến sau cùng nên đứng cuối bảng.
Heo là một loài vật có hình dáng tròn trịa, mũm mỉm, béo tốt, khác với loài thú dữ khác như rắn, sư tử, cọp. Trong chuỗi 12 con giáp, ba con vật cuối cùng gồm gà, chó, và heo có mối liên hệ gần với con người hơn các con vật như chuột, cọp, rắn, ngựa... Heo là một con vật mà chỉ nói đến tên chúng ta cũng có thể cảm thấy gần gũi. Trong tiếng Việt hằng ngày, heo cũng thường được nhắc đến, nào là mập như heo, ngu như heo, lười như heo, ăn như heo, ngủ như heo, sướng như heo, và dơ như heo… Nói chung là muốn so sánh để diễn ta một ai đó không làm gì cả, chỉ thích hưởng thụ, nhàn nhã là lại nghĩ đến con heo. Nhưng đứng trên phương diện sinh học mà nói, thật ra heo không có tối dạ; trái lại, heo rất thông minh, dễ dạy, ngoan hiền và thân thiện.
Theo văn hóa Việt Nam nói riêng hay Châu Á nói chung, heo là biểu trưng của tiền bạc, phồn thịnh, sung túc, tài lộc, nên nhiều nghệ nhân đã đúc tượng heo vàng, ảnh heo treo tường, heo ống tiết kiệm làm giàu, tranh dân gian để thể hiện sự chúc tụng năm mới nhiều may mắn, con cháu đông vui, sanh sôi nảy nở, phúc lộc dồi dào phong phú. Heo cũng còn là biểu tượng của vật tế lễ cúng bái như sính lễ hôn nhân, đám giỗ, quà cưới cho cô dâu, tạ lễ sau khi thành công ở thương trường buôn bán, sanh con, cúng tế thần linh, lễ khai trương…
Trong Phật giáo, nhất là hệ thống kinh điển Pāḷi Theravāda, hình ảnh con heo ít được nhắc đến. Hiếm hoi lắm, chúng ta mới thấy nhắc đến con heo mập béo nhưng lại bị so sánh với hình ảnh một người ham ăn mê ngủ. Đức Phật dạy rằng: người thiểu trí, khi hôn mê, tham ăn, thích ngủ, ngã lăn nằm dài như con heo to mà người ta nuôi bằng thức ăn thừa - người ấy sẽ tái sanh trở đi trở lại mãi mãi triền miên.
Người ưa ngủ, ăn lớn; Nằm lăn lóc qua lại,Chẳng khác heo no bụng; Kẻ ngu nhập thai mãi.[1]Một hôm nọ, đức Thế Tôn vào thành Vương xá (Rājagaha) khất thực, gặp một con heo nái tơ. Trong lúc đi dài theo đường, Ðức Phật trông thấy một con heo nái. Ngài mỉm cười, và do nhân duyên Thế Tôn cười ấy, Đại đức Ānanda đã bạch hỏi nguyên nhân. Thế Tôn liền thuật lại rằng Vào thời đức Phật Kakusandha, con heo tơ này là một gà mái ở gần Thiền đường nọ. Gà thường chăm chú nghe một vị Tỳ-khưu niệm đề mục thiền tu chứng Tuệ giác. Chỉ nghe những âm thanh kia thôi, sau khi chết, gà mái được tái sinh vào cung vua, làm công chúa tên Ubbarī. Một hôm công chúa đi vào nhà xí, thấy đống dòi. Liền tại chỗ ấy, chăm chú quan sát đám dòi, tâm định tĩnh, cô nhập Sơ thiền. Sau khi mãn kiếp làm công chúa, cô được sanh vào dòng dõi Bà-la-môn. Từ giai cấp Bà-la-môn, do tạo nghiệp ác trong kiếp ấy, bây giờ cô lại tái sinh làm con heo nái tơ này.[2] Ở trường hợp này, hình ảnh con heo nái tơ chính là hậu quả của việc làm bất thiện, khiến cô công chúa Bà-la-môn phải tái sanh làm loài súc vật. Đó cũng là định luật của nhân quả nghiệp báo.
Tuy trong hệ thống Chánh tạng không nhắc đến hình ảnh chú lợn nhiều, nhưng trong các mẫu chuyện tiền thân (Jātaka) thuộc hệ thống Chú giải (Aṭṭhakathā) có nhiều mẫu chuyện nói về tiền kiếp của đức Bồ-tát cũng nói đến hình ảnh những chú lợn thông minh, tài trí, biết tri ân…
Điển hình là chú heo của người thợ mộc trong câu chuyện sau đây chẳng hạn. Khi ấy, có người thợ mộc cứu một con heo rừng con bị rớt xuống hố. Ông đem về nuôi và đặt cho tên Tacchasūkara (heo rừng của thợ mộc). Heo lớn lên, nó thường giúp ông trong công việc hằng ngày như lấy cái cưa, cái đục, cái bào cho ông dùng. Lúc heo đủ lớn, ông thợ mộc thả heo về rừng. Heo về rừng họp bầy với một số heo rừng khác. Bầy heo thường bị con cọp sống gần đây rượt bắt mỗi ngày. Tacchasūkara liền lập kế đối phó, cho đào hố và huấn luyện bầy heo mỗi lứa giữ một nhiệm vụ khác nhau trong lúc lâm trận. Dưới sự chỉ huy của Tacchasūkara, bầy heo chiến thắng và ăn thịt cọp. Diệt trừ cọp xong, bầy heo nghĩ đến việc trừ tên đạo sĩ giả danh từng lợi dụng cọp bắt heo để ông có thịt ăn. Bầy heo đến nơi trú ẩn của đạo sĩ. Tên đạo sĩ giả danh sợ, leo lên cây sung, nhưng không thoát khỏi vì bầy heo ủi lật gốc sung. Ông rớt xuống và bị bầy heo xé xác. Do chiến thắng ấy, Tacchasūkara được bầy heo tôn làm vua ngay dưới gốc cây sung.[3]
Một câu chuyện khác, Khi ấy, đức Bồ-tát sanh làm con sư tử sống trong một hang động trên Tuyết Sơn. Trên bờ hồ gần động ấy có nhiều heo rừng và ẩn sĩ sinh sống. Một hôm, sau khi ăn xong, sư tử xuống hồ uống nước. Thấy con heo rừng to, sư tử nghĩ thầm nên tránh nó để hôm sau dễ bắt nó ăn thịt hơn. Heo rừng thấy vậy tưởng sư tử sợ mà tránh mình nên ngẩng đầu lên thách thức. Sư tử liền hứa rằng: hai bên sẽ tranh tài vào tuần sau. Heo rừng mừng lắm và đi khoe với dòng họ mình. Khi nghe tin ấy, bà con heo hoảng sợ dùm cho nó và khuyên nó nên đến bãi phân của các nhà tu khổ hạnh, lăn lộn trên phân trong bảy ngày, phơi cho khô, đến ngày thứ bảy tắm ướt, và khi đến chỗ hẹn đứng trên đầu gió. Heo làm y lời khuyên. Sư tử gặp heo, hửi mùi hôi từ thân heo và bỏ đi vì sư tử có tánh ưa sạch. Nhờ đó mà heo được thoát chết.[4] Con heo rừng ở câu chuyện này vì tánh ngạo mạn và không biết lượng sức mình nên chút nữa là phải nộp mạng cho sư tử. Do nhờ có những người bà con thông minh nên đã tìm ra cách để cứu mạng cho heo. Còn ở câu chuyện kế tiếp, hai anh em heo đã thoát chết mà còn thuyết pháp tế độ cho những người khác. Câu chuyện kể rằng: thuở xưa, có hai chú heo con bị heo mẹ bỏ rơi được một bà già đem về nuôi như con. Bà cụ đặt con heo anh (Bồ-tát) tên là Mahātuṇḍila và con heo em tên là Cullatuṇḍila. Một hôm, bà già bị bọn nhậu đến gạ bà bán heo; bà không chịu bán nên bọn chúng dụ bà uống say rồi định bắt heo em Cullatuṇḍila. Hoảng sợ, Cullatuṇḍila chạy đến anh và được anh nói rằng số phận heo là bị xẻ thịt, vậy em hãy can đảm nhận lấy cái chết của mình. Trong khi người anh khuyên em như vậy, dân chúng trong kinh thành Bārāṇasī kéo đến nghe đông nghẹt. Vua Bārāṇasī tôn kính mời Bồ-tát lên vương tọa, và cho bà cụ vinh hiển bằng cách truyền tắm hai chú heo với nước tẩm hương, mặc lễ phục, trang điểm vàng ngọc trên cổ và ban cho địa vị các vương tử trong kinh thành. Vì thế, vua bảo vệ hai chú heo với một đoàn quân hộ tống đông đảo. Sau đó nhà vua nhận hai heo làm dưỡng tử và cử Bồ-tát Mahātuṇḍila lên chức vụ xử án. Sau khi vua băng hà, Mahātuṇḍila viết lại sách luật để hậu thế theo đó mà xử kiện.[5]
Ngoài những câu chuyện về chú heo lanh trí, bên cạnh đó còn câu chuyện đề cập đến những chú heo hơi bị ngây thơ, dễ thương và phải nhờ đến sự trợ giúp của người khác. Khi ấy, đức Bồ-tát sanh làm ẩn sĩ sống trên Tuyết Sơn. Gần chòi lá của ngài là cái hang thủy tinh, trong ấy có 30 con heo rừng sanh sống. Lúc ấy, có con sư tử lai vãng quanh hang nên bóng của nó phản chiếu lên thuỷ tinh làm bầy heo lo sợ ăn ngủ không yên. Bầy heo bèn đem bùn trét để thuỷ tinh hết phản chiếu, nhưng lông heo cọ xát làm thuỷ tinh chiếu sáng hơn. Bầy heo không biết phải tính sao, liền quyết định đến hỏi vị ẩn sĩ kia làm thế nào để làm dơ bẩn thủy tinh. Bồ-tát hướng dẫn bầy heo nên dời đi nơi khác thì sẽ an toàn và không phải lo sợ nữa.[6]
Chỉ bấy nhiêu thôi, hình ảnh chú lợn trong kinh điển Pāḷi kể cả Chánh tạng và Chú giải nhưng cũng có thể cho chúng ta thấy được hình ảnh chú heo cũng rất dễ thương, lanh trí và đặc tính duy nhất là ham ăn, mê ngủ. Ngoài hệ thống kinh điển, lão Trư trong bộ tiểu thuyết Tây Du Ký mang thân hình người với khuôn mặt con lợn đã đi vào lòng người hâm mộ bao thế hệ. Lão Trư là hậu kiếp của Thiên Bồng Nguyên Soái nhưng phạm sai lầm nên bị đày xuống trần và đi theo Đường Tăng để thỉnh kinh. Tên gọi của Bát Giới chính là Trư Ngộ Năng do Quan Thế Âm Bồ Tát đặt cho nghĩa là: con lợn nhận ra, ngộ ra khả năng của mình để ám chỉ việc Bát Giới luôn tự đánh giá mình quá cao mà quên mất mình mang một hình hài kinh khủng. Tam Tạng đặt tên là Bát Giới với ý nghĩa là Tám ranh giới bị kiềm chế, vậy mà lão Trư nhà ta luôn vi phạm vào những điều giới ấy. Bát Giới cũng luôn đẩy những người đồng hành vào rắc rối bởi sự lười biếng, thói háu ăn và bản tính háo sắc trước những cô gái đẹp của mình.
Tóm lại, heo là con vật thuộc 12 con giáp, rất thân thiện và gần gũi với con người. Nó sướng nhất vì chỉ ăn và ngủ, không lo lắng điều gì. Loài heo vốn là nhàn nhã, sống vô tư, không lo nghĩ, phúc lộc nên mọi người quan niệm năm heo sẽ mang nhiều niềm vui, vận may, tụ tài lộc, lợi nhuận sung túc thoải mái cả tinh thần và vật chất đến với mọi người. Năm mới Tết đến. Lại một chú heo sắp về, chúc mọi người một cuộc sống nhàn nhã, không lo lắng, bận lòng và an lạc, thoải mái trong từng giây phút, từng ngày.
Kính chúc mọi nhà một năm mới an lạc, thuận duyên trong cuộc sống và an lạc trong Chánh pháp.
Mừng Xuân Kỷ Hợi 2019.
Bhik. Samādhipuñño Định Phúc
__________________________________________________________
[1] Pháp cú kinh, kệ 325 (Dhp.325).
[2] Chú giải Pháp cú, câu chuyện Con heo nái tơ (DhpA.iv.47).
[3] Chuyện bổn sanh Heo rừng Taccha – Tacchasūkarajātaka (J.492; JA.iv.342ff). Chuyện bổn sanh Con heo rừng của người thợ mộc - Vaḍḍhakīsūkarajātaka (J.283; JA.ii.403ff) cũng có nội dung câu chuyện tương tự như vậy.
[4] Chuyện bổn sanh Con heo rừng – Sūkarajātaka (J.153; JA.ii.9ff).
[5] Chuyện bổn sanh Con heo Tuṇḍila - Tuṇḍilajātaka (J.388; JA.iii.286ff).
[6] Chuyện bổn sanh Ngọc Ma-ni và heo rừng - Maṇisūkarajātaka (J.285; JA.ii.415ff).
- [24/08/2021] Tứ diệu đế kinh
- [03/12/2020] Bản Chất Đời Sống
- [02/12/2020] Chỉ Dẫn Bản Đồ Cứu Cánh Níp-Bàn
- [04/11/2020] Thi hóa Trung bộ kinh
- [04/11/2020] Giới luật của hàng xuất gia-Bhikkhu Khantipālo
- [24/01/2019] Phật pháp vấn đáp
- [21/01/2019] Nguyện vọng cao nhất của con người
- [21/01/2019] Nền tảng Phật giáo
- [16/01/2019] Luật xuất gia tóm tắt - quyển thượng
- [16/01/2019] Luật xuất gia-quyển hạ