Lễ bái Tam bảo và Cư sĩ luật tóm tắt

Kinh tụng dành cho Cư sĩ

 PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
THERAVĀDA
----- 

LỄ BÁO TAM BẢO (TIRATANA PAṆĀMA)

CƯ SĨ LUẬT TÓM TẮT (GIHIVINAYA SAṄKHEPA)  
Soạn giả TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)

 

  

MỤC LỤC

LỄ BÁI TAM BẢO TÓM TẮT.. 4

Ratanattayapūjā ‒ Lễ cúng tam bảo. 4

Buddharatanapanāma ‒ Lễ bái Phật bảo. 4

Buddhaguṇa ‒ Ân đức Phật 4

Buddha attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Phật bảo. 5

Buddha khamāpana ‒ Sám hối Phật bảo. 5

Dhaṃmaratanapanāma ‒ lễ bái Pháp bảo. 5

Dhamma guṇa ‒ Ân đức Pháp bảo. 5

Dhamma attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Pháp bảo. 5

Dhamma khamāpana ‒ Sám hối Pháp bảo. 6

Saṅgharatanapanāma ‒ Lễ bái Tăng bảo. 6

Saṅghaguṇa ‒ Ân đức Tăng bảo. 6

Saṅgha attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Tăng bảo. 6

Saṅgha khamāpana ‒ Sám hối Tăng bảo. 7

Lễ bái Tam bảo tóm tắt chung với sự cúng dường lễ vật 7

LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT ‒ GIHIVINAYAṂKHEPA.. 8

Phép tu bước đầu ‒ Pubbabhāgapaṭipatti 8

Phép thọ ngũ giới 9

Phép thọ bát quan trai giới 10

Bài sám hối 12

Kinh tụng rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh ‒ Sabbadisāsu mettāpharaṇaṃ.. 13

Kinh hồi hướng ‒ Tilokavijayarājapattidānagāthā. 14

 

 

 

 

 

LỄ BÁI TAM BẢO TÓM TẮT

Ratanattayapūjā ‒ Lễ cúng tam bảo

Imehi dīpadhūpāḍisakkārehi Buddhaṃ Dhammaṃ Saṅghaṃ abhipūjayāmi mātāpitādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya ‒ Tôi xin dâng các lễ vật này, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo, ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ tôi và tôi đều được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (Lạy)

Buddharatanapanāma ‒ Lễ bái Phật bảo

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa ‒ Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā đó. Ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (Đọc 3 lần, lạy 1 lạy)

Yo sannisinno varabodhimūle māraṃ sasenaṃ mahatiṃ vijeyyo sambodhimāgacchi anantañāno lokuttamotaṃ panamāmi buddhaṃ ‒ Đức Phật tham thiền về số tức quan, ngồi trên bồ đoàn, dưới bóng cây Bồ đề quý báu và đắc thắng toàn bọn Ma vương mà thành bậc Chánh đẳng Chánh giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Ngài. (Lạy)

Ye ca buddhā atītā ca ye ca buddhā anāgatā paccuppannā ca ye buddhā ahaṃ vandāmi sabbadā ‒ Chư Phật đã thành Chánh giác trong kiếp quá khứ, Chư Phật sẽ thành Chánh giác trong kiếp vị lai, Chư Phật đang thành Chánh giác trong kiếp hiện tại này, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong tam thế ấy. (Lạy)

Buddhaguṇa ‒ Ân đức Phật

Itipi so Bhagavā

1) Arahaṃ (Ứng Cúng) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Arahaṃ bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.

2) Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Sammāsambuddho bởi Ngài đã thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.

3) Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Vijjācaraṇasampanno bởi Ngài toàn đắc cái giác, 8 cái giác và 15 cái hạnh.

4) Sugato (Thiện Tuệ) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Sugato bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt Đại Niết-bàn.

5) Lokavidū (Thế Gian Giải) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Lokavidū bởi Ngài đã thông suốt tam giới.

6) Anuttaro (Vô Thượng Sĩ) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Anuttaro bởi Ngài có đức hạnh không ai bì.

7) Purisadammasārathi (Điều Ngự Trượng Phu) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.

8) Satthādevamanussānaṃ (Thiên Nhơn Sư) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Satthādevamanussānaṃ bởi Ngài là thầy cả chư Thiên và nhân loại.

9) Buddho (Phật) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Buddho bởi Ngài giác ngộ lý Tứ Diệu đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với.

10) Bhagavāti (Thế Tôn) ‒ Đức Thế Tôn hiệu Bhagavā bởi Ngài đã siêu xuất tam giới tức là Ngài không còn luân hồi lại nữa. (Lạy)

Buddha attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Phật bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ buddho me saraṇaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ ‒ Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo chỉ có Đức Phật là quý báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi, y như lời chân thật này. (Lạy)

Buddha khamāpana ‒ Sám hối Phật bảo

Uttamaṅgena vandehaṃ pādapaṃsuṃ varuttamaṃ buddhe yo khalito doso buddho khamatu taṃ mamaṃ ‒ Tôi xin hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật, là Đấng Chí Tôn Chí Thánh. Các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến Phật bảo, cúi xin Phật bảo xá tội lỗi ấy cho tôi. (Lạy)

Dhaṃmaratanapanāma ‒ lễ bái Pháp bảo

Aṭṭhangikārīyapatho janānaṃ mokkhappavesāya ujū ca maggo dhammo. Ayaṃ santikaro paṇīto nīyyāniko taṃ paṇamāmi dhammaṃ ‒ Các Pháp đúng theo đạo Bát chánh, là con đàng đi của bậc Thánh nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết-bàn được. Pháp bảo là pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (Lạy)

Ye ca dhammā atītā ca ye ca dhammā anāgatā paccuppannā ca ye dhammā ahaṃ vandāmi sabbadā ‒ Các Pháp của Chư Phật đã có trong kiếp quá khứ, các Pháp của Chư Phật sẽ có trong kiếp vị lai, các Pháp của Chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại này. Tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (Lạy)

Dhamma guṇa ‒ Ân đức Pháp bảo

  1. Svākkhāto Bhagavatā ‒ Svākkhāto Bhagavatā dhammo nghĩa là tam tạng Pháp bảo của Đức Thế Tôn đã khẩu truyền y theo Chánh pháp.
  2. Dhammo ‒ Dhammo là Pháp thánh có 9 hạng: 4 đạo, 4 quả và 1 Niết-bàn.
  3. Sandiṭṭhiko ‒ Sandiṭṭhiko là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.
  4. Akāliko ‒ Akāliko là Pháp độ cho đắc quả không chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả không chậm trễ.
  5. Ehipassiko ‒ Ehipassiko là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, có thể ứng hóa cho kẻ khác biết được.
  6. Opanayiko ‒ Opanayiko là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình do nhờ phép thiền định.
  7. Paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti ‒ Paccattaṃ veditabbo viññūhi là Pháp mà các hàng trí tuệ nhứt là bậc thượng trí được biết, được thấy tự nơi tâm.

Dhamma attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Pháp bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ dhammo me saraṇaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ ‒ Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo chỉ có Pháp bảo là quý báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi, y như lời chân thật này.

Dhamma khamāpana ‒ Sám hối Pháp bảo

Uttamaṅgena vandehaṃ dhammañca duvidhaṃ varaṃ dhamme yo khalito doso dhammo khamatu taṃ mamaṃ ‒ Tôi xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp bảo là Pháp học và Pháp thành. Các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến Pháp bảo, cúi xin Pháp bảo xá tội lỗi ấy cho tôi. (Lạy)

Saṅgharatanapanāma ‒ Lễ bái Tăng bảo

Saṅgho visuddho varadakkhiṇeyyo santindriyo sabbamalappahīno guṇehinekehi samiddhipatto anāsavo taṃ paṇamāmi saṅghaṃ ‒ Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quý báu, là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, vì lục căn của các Ngài đã thanh tịnh, lòng tham muốn đã dứt trừ, là Tăng đã thoát ly trần tục, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng ấy. (Lạy)

Ye ca saṅghā atītā ca ye ca saṅghā anāgatā paccuppannā ca ye saṅghā ahaṃ vandāmi sabbadā ‒ Chư Tăng đã đắc đạo cùng quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc đạo cùng quả trong kiếp vị lai. Chư Tăng đang đắc đạo cùng quả trong kiếp hiện tại này, tôi xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong tam thế ấy. (Lạy)

Saṅghaguṇa ‒ Ân đức Tăng bảo

1) Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ‒ Tăng là các bậc Thinh văn đệ tử Phật, các ngài đã tu hành chín chắn y theo Thánh pháp.

2) Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ‒ Tăng là các bậc Thinh văn đệ tử Phật, các ngài đã tu hành y theo Chánh pháp.

3) Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ‒ Tăng là các bậc Thinh văn đệ tử Phật, các ngài tu hành để giác ngộ Niết-bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.

4) Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ‒ Tăng là các bậc Thinh văn đệ tử Phật, các ngài đã tu theo phép giới định tuệ.

5) Yadidaṃ cattāri purisayugāni ‒ Tăng nếu đếm đôi thì có 4 bậc: Tăng đã đắc đạo cùng quả Tu-đà-huờn, Tăng đã đắc đạo cùng quả Tư-đà-hàm, Tăng đã đắc đạo cùng quả A-na-hàm, Tăng đã đắc đạo cùng quả A-la-hán.

6) Aṭṭha purisapuggalā ‒ Tăng nếu đếm chiếc thì có 8 bậc: Tăng đã đắc đạo Tu-đà-huờn, Tăng đã đắc quả Tu-đà-huờn, Tăng đã đắc đạo Tư-đà-hàm, Tăng đã đắc quả Tư-đà-hàm, Tăng đã đắc đạo A-na-hàm, Tăng đã đắc quả A-na-hàm, Tăng đã đắc đạo A-la-hán, Tăng đã đắc quả A-la-hán.

7) Esa bhagavato sāvakasaṅgho ‒ Chư tăng ấy là các bậc Thinh văn đệ tử Phật.

8) Āhuṇeyyo ‒ Các ngài đáng thọ lãnh 4 món vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có giới hạnh.

9) Pāhuneyyo ‒ Các ngài đáng thọ lãnh của tín thí mà họ dành để cho thân quyến cùng bậu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các ngài.

10) Dakkiṇeyyo ‒ Các ngài đáng thọ lãnh của tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.

11) Añjakaraṇīyo ‒ Các ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.

12) Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti ‒ Các ngài là phước điền của chúng sanh không đâu bì kịp. (Lạy)

Saṅgha attapaṭiññā ‒ Lời bố cáo quy y Tăng bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ saṅgho me saraṇaṃ varaṃ etena saccavajjena hotu me jayamaṅgalaṃ ‒ Chẳng có chi đáng cho tôi phải nương theo, chỉ có đức Tăng là quý báu, nên tôi phải hết lòng thành kính mà nương theo, đặng cầu sự an lạc đến cho tôi, (y như lời chân thật này). (Lạy)

Saṅgha khamāpana ‒ Sám hối Tăng bảo

Uttamaṅgena vandehaṃ saṅghañca duvidhottamaṃ saṅghe yo khalito doso saṅgho khamatu taṃ mamaṃ ‒ Tôi xin hết lòng thành kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng bảo là Phàm tăng và Thánh tăng, các tội lỗi mà tôi đã vô ý phạm đến tăng bảo, cúi xin tăng bảo xá tội lỗi ấy cho tôi. (Lạy)

Lễ bái Tam bảo tóm tắt chung với sự cúng dường lễ vật

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthādevamanussānaṃ buddho bhagavā’ti. (Nên tụng luôn Pāli và nghĩa theo hiệu Phật)

Taṃ arahatādiguṇasaṃyuttaṃ buddhaṃ sirasā namāmi ‒ Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ đức Chánh Biến Tri, Ngài có đầy đủ các đức, nhứt là đức Arahaṃ.

Tañca buddhaṃ imehi sakkārehi abhipūjayāmi ‒ Tôi xin thành kính cúng dường đức Chánh đẳng Chánh giác bằng các lễ vật này. (Lạy)

Svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opanayiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti. (Nên tụng luôn Pāli và nghĩa theo hiệu Pháp)

Taṃ svākkhātatādiguṇasaṃyuttaṃ dhammaṃ sirasā namāmi ‒ Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ Pháp bảo có đầy đủ các đức, nhứt là đức Svākkhāto.

Tañca dhammaṃ imehi sakkārehi abhipūjayāmi ‒ Tôi xin thành kính cúng dường Pháp bảo bằng các lễ vật này. (Lạy)

Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuṇeyyo pāhuneyyo dakkiṇeyyo añjakaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti. (Nên tụng luôn Pāli và nghĩa theo hiệu Tăng).

Taṃ supaṭipannatādiguṇasaṃyuttaṃ saṅghaṃ sirasā namāmi ‒ Tôi xin thành kính cúi đầu làm lễ đức Tăng có đầy đủ các đức, nhứt là đức Supaṭipanno.

Tañca saṅghaṃ imehi sakkārehi abhipūjayāmi ‒ Tôi xin thành kính cúng dường đức Tăng bằng các lễ vật này. (Lạy)

Vandāmi cetiyaṃ sabbaṃ sabbaṭṭhāne supatiṭṭhitaṃ sārīrikadhātumahābodhiṃ buddharūpaṃ sakalaṃ sadā ‒ Tôi xin thành kính làm lễ tất cả bảo tháp, Ngọc Xá Lợi, đại thọ Bồ đề và kim thân Phật đã tạo thờ trong khắp mọi nơi.

‒ Dứt lễ bái Tam bảo ‒

---

 

 

LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT ‒ GIHIVINAYAṂKHEPA

Phép tu bước đầu ‒ Pubbabhāgapaṭipatti

Những người có lòng tin tưởng đến ân đức Tam bảo và muốn quy y làm thiện nam (upāsaka) hoặc tín nữ (upāsikā) là phép tu bước đầu cho đặng chín chắn theo bổn phận người cư sĩ, trước hết phải tỏ lời sám hối giữa Tam bảo (đối trước tượng Phật hoặc trước tháp thờ Xá Lợi hoặc trước một, hai, ba vị tỳ khưu hoặc trước mặt tăng chúng là bốn thầy tỳ khưu trở lên mà sám hối cũng được) rồi sau mới thọ tam quy đặng làm thiện nam hoặc tín nữ trong đạo Phật mới đúng theo luật tại gia cư sĩ, xong rồi phải thọ trì ngũ giới cho đến trọn đời. Nếu có lòng tín thành sốt sắn hơn nên thọ trì bát quan trai giới theo ngày đã định, càng thêm được phước.

‒ Nếu chỉ có 1 người nam hoặc 1 người nữ sám hối thì đọc như sau này:

Accayo mam bhante accagamā yathā bālaṃ yathā mūḷhaṃ yathā akusalaṃ. Yo’haṃ [hoặc yā’haṃ] bhante kāyena vā vācāya vā manasā vā bhagavato [hoặc buddhassa] vā dhammassa vā saṅghassa vā agāravaṃ akāsiṃ tassa [hoặc tassā] me bhante. Bhagavā [hoặc ayyo, ayyā, saṅgho] accayaṃ accayato paṭiggaṇhatu [hoặc paṭiggaṇhatu, paṭiggaṇhantu, paṭiggaṇhatu] āyatiṃ saṃvarāya.

Bạch Đức Thế Tôn [Ngài, các Ngài, Đại đức tăng], vì tôi là người thiểu trí, lầm lạc và không minh mẫn nên đã phạm các tội lỗi. Bạch Đức Thế Tôn [Ngài, các Ngài, Đại đức tăng], sợ e tôi đã dể duôi, không đem lòng thành kính do thân, khẩu, ý của tôi bất tịnh mà phạm đến Phật, Pháp, Tăng. Bạch Đức Thế Tôn [Ngài, các Ngài, Đại đức tăng], cầu xin Đức Thế Tôn xá các tội lỗi ấy cho tôi, bởi các tội lỗi ấy là quấy thật, đặng cho tôi làm những việc lành từ nay về sau.

Xong rồi thầy tỳ khưu hoặc chư tăng chứng minh nơi ấy phải nhận bằng tiếng “sādhu”, nghĩa là phải rồi, đúng rồi.

‒ Nếu có nhiều thiện tín, từ 2 người trở lên đồng xin sám hối một lượt thì đọc:

Accayo no bhante accagamā yathābāle [yathābālā] yathā mūḷhe [yathāmulhā] yathā akusale [akusalā]. Ye [] mayaṃ bhante kāyena vā vācāya vā manasā vā bhagavato [buddhassa] vā dhammassa vā saṅghassa vā agāravam akasimhā tesaṃ [tāsaṃ] no bhante bhagavā [ayyo, ayyā, saṅgho] accayaṃ accayato paṭigganhātu [paṭiggaṇhatu, paṭiggaṇhantu, paṭiggaṇhatu] āyatiṃ saṃvarāya.

Nghĩa như trước, chỉ khác nhau là đổi “tôi” ra “chúng tôi”.

Khi đã làm lễ sám hối giữa Tam bảo rồi nên xin thọ trì tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng) mới đúng theo phép tu của thiện nam, tín nữ trong Phật Pháp. Phép quy y trước trước mặt 1, 2, 3 thầy tỳ khưu, hoặc giữa tăng chúng đều được cả.

‒ Nếu chỉ có 1 người nam hoặc 1 người nữ làm phép quy y trước thầy tỳ khưu hoặc hoặc giữa tăng chúng thì phải đọc như vầy:

Esāhaṃ bhante suciraparinibbutampi taṃ bhagavantaṃ saraṅaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ [upāsikaṃ] mam, ayyo [ayyā, saṅgho] dhāretu [dhārentu, dhāreṭu], ajjatagga pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

Bạch Ngài [các Ngài, Đại đức tăng]. Tôi cầu xin thọ phép quy y Phật đã nhập Niết-bàn, cầu xin thọ xin phép quy y Pháp, cầu xin thọ xin phép quy y Tăng. Cầu xin Ngài [các Ngài, Đại đức tăng] nhận biết cho tôi là người cận sự nam [cận sự nữ] đã quy y Tam bảo từ nay cho đến trọn đời.

Xong rồi thầy tỳ khưu hoặc chư tăng chúng phải nhận bằng tiếng “sādhu”.

‒ Nếu có nhiều thiện tín, từ 2 người trở lên đồng lòng xin thọ phép quy y thì đọc:

Ete [etā] mayaṃ bhante suciraparinibbutampi taṃ bhagavantaṃ saraṅaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsake [upāsikāyo] no ayyo [ayyā, saṅgho] dhāretu [dhārentu, dhāreṭu] ajjatagge pāṇupete [pāṇupetā] saraṅaṃ gate [gatā].

Nghĩa như trước, chỉ khác nhau là đổi “tôi” ra “chúng tôi”.

‒ Nếu 1 người nam hoặc nữ đối trước tượng Phật hoặc trước tháp thờ Xá Lợi mà làm phép quy y thì đọc:

Esāhaṃ bhante bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ [upāsikaṃ] maṃ bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

Nghĩa như trên, chỉ khác nhau chỗ gọi: bạch Ngài, các ngài, Đại đức tăng thì đọc: bạch Đức Thế Tôn.

Dứt phần phép tu bước đầu ‒

Phép thọ ngũ giới

Những người đã thọ phép tam quy rồi được gọi là thiện nam, tín nữ nếu muốn thọ ngũ giới, phải xin thọ nơi thầy tỳ khưu hoặc sa di.

Trước hết phải đọc bài “Lễ bái Tam bảo” tưởng đến ân đức Phật, Pháp, Tăng rồi mới nên đối trước mặt thầy tỳ khưu hoặc sa di mà xin tho ngũ giới bằng lời sau này:

  • Ukāsa ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi [yācāma] ‒ Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và ngũ giới nơi Tam bảo để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.
  • Dutiyampi ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi [yācāma]. Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và ngũ giới nơi Tam bảo để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì.
  • Tatiyampi ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi [yācāma] ‒ Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và ngũ giới nơi Tam bảo để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba.

Xong rồi vị ông thầy chứng minh nơi ấy phải đọc bài này 3 lần: “Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa ‒ Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā đó, Ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy”.

Ông thầy đọc tiếp bài quy y Tam bảo, người thọ giới cũng phải đọc theo:

  • Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp. Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng
  • Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì. Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì. Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.
  • Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba. Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba. Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi ‒ Tôi đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.

Ông thầy đọc: “Tisaraṇaggahaṇaṃ paripuṇṇaṃ ‒ Phép quy y Tam bảo tròn đủ chỉ có bấy nhiêu”.

Người thọ tam quy phải đọc lời sau: “Āma bhante” nghĩa là “Dạ, vâng”

Ông thầy đọc (người thọ ngũ giới phải đọc theo):

1) Paṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

2) Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3) Kāmesumicchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.

4) Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối.

5) Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu và các chất say.

Ông thầy đọc: Imāni pañca sikkhāpadāmi sādhukaṃ katvā appamādena niccakālaṃ sammārakkhitabbaṃ ‒ Thiện tín [chư thiện tín] nên thọ trì ngũ giới này cho được trong sạch, phải vâng giữ hành theo cho đến trọn đời, chẳng nên dể duôi.

Người thọ giới đọc: “Āma bhante” nghĩa là “Dạ, vâng”

Ông thầy giải về quả báo trong việc trì giới: Sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhaye ‒ Các chúng sanh được sanh về cõi trời cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh giàu sang cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh giải thoát nhập Niết-bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy, nên thiện tín [chư thiện tín] phải ráng thọ trì giới luật cho trong sạch, đừng có lấm nhơ.

Người thọ giới trả lời: “Sādhu” (phải rồi).

Phép thọ bát quan trai giới

Những người thiện tín cầu xin thọ giới bát quan trai, trước ngày hạn kỳ thọ giới, phải sắp đặt cho xong xuôi công nghệ của mình làm trong ngày thường, đặng sáng ra xin thọ giới cho được trong sạch, khỏi bị việc trần ràng buộc.

Đến kỳ, sáng phải thức cho sớm, dọn mình cho sạch sẽ rồi mới nên đi thọ giới, nếu đi được trong lúc rạng đông thì tốt, bằng không có thể đi thọ được, phải đối trước kim thân mà phát nguyện như sau: Ajja uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathiko [uposathikā] bhavissāmi ‒ Nay phải ngày thọ trì giới bát quan trai, tôi là người thọ trì giới bát quan trai, trọn ngày nay và đêm nay.

Nếu không thuộc tiếng Phạn thì phát nguyện bằng tiếng Việt Nam cũng được. Sau khi phát nguyện phải giữ một lòng, không nên phạm điều học mà mình đã thọ trì. Nếu tiện thì phải đi xin thọ giới nơi thầy tỳ khưu hoặc sa di, dầu khi mặt trời đã lên cao rồi mà mình mới đi thọ giới, thì cũng gọi rằng mình được trọn một ngày một đêm vậy bởi mình cũng đã có phát nguyện rồi, phước báu cũng bằng nhau.

Khi đối trước mặt thầy tỳ khưu và sa di, mà xin thọ giới bát quan trai, trước hết phải đọc bài lễ bái Tam bảo, sau mới xin thọ giới. Xin thọ bát quan trai phải đọc như sau này:

  • Ukāsa ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi [yācāma] ‒ Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và bát quan trai giới để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.
  • Dutiyampi ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi [yācāma] ‒ Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và và bát quan trai giới để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích lần thứ nhì.
  • Tatiyampi ahaṃ [mayaṃ] bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ yācāmi [yācāma] ‒ Bạch Ngài, tôi [chúng tôi] xin thọ trì tam quy và bát quan trai giới để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích lần thứ ba.

Xong rồi ông thầy truyền giới đọc bài Namo 3 lần và tam quy, mình phải đọc theo y như trong phép thọ ngũ giới đã có giải.

Bát quan trai giới:

1) Paṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

2) Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3) Abrahmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự thông dâm.

4) Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối.

5) Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu và các chất say.

6) Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.

7) Naccagītavāditavisūkadassanamālā gandhavilepanadhāranamandaṇavibhū-sanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.

8) Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhapadaṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm và ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Xong rồi người xin thọ giới đọc: Imaṃ aṭṭhaṅga samannāgataṃ buddhappaññattaṃ uposathaṃ imañca rattiṃ imañca divasaṃ sammadeva abhirakkhituṃ samādiyāmi ‒ Tôi xin thọ trì bát quan trai giới trọn đủ tám điều của Đức Phật đã giáo truyền, hầu để vâng giữ hành theo cho được trong sạch trọn ngày nay và đêm nay, mong cầu gieo được giống lành để thấy rõ Niết-bàn trong ngày vị lai.

Xong rồi ông thầy truyền giới đọc bằng lời sau này để nhắc nhở cho mình ghi nhớ: Imāni aṭṭha sikkhāpadāni uposatha sīlavasena imañca rattiṃ imañca divasaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sammā rakkhitabbaṃ ‒ Thiện tín nên thọ trì bát quan trai giới cho trọn ngày nay và đêm nay không nên dể duôi.

Người thọ giới đọc: Āma bhante (Dạ, xin vâng).

Xong rồi ông thầy giải về quả báo trì giới: Sīlena sugatiṃ yanti sīlena bhogasampadā sīlena nibbutiṃ yanti tasmā sīlaṃ visodhaye. Nghĩa như chương trước.

Người thọ trả lời: Sādhu (Phải rồi).

‒ Dứt thọ phép bát quan trai ‒

 

Bài sám hối

(Tụng đêm 14, 15 và 30 mỗi tháng)

 

 

Cúi đầu lạy trước bửu đài

Con xin sám hối từ rày ăn năn

Xưa nay lỡ phạm điều răn,

Do thân, khẩu, ý bị màn vô minḥ

Gây ra nghiệp dữ cho mình,

Sát sanh hại vật chẳng tình xót thương.

Giết ăn hoặc bán không lường,

Vì lòng tham lợi quên đường thiện nhân.

Oan oan tương báo cõi trần,

Trầm luân biển tối chịu phần khổ lao.

Xét ra nhân vật khác nào,

Hại nhân, nhân hại mắc vào trả vay.

Lại thêm trộm sản cướp tài,

Công người cực nhọc hằng ngày làm ra.

Lòng tham tính bảy lo ba,

Mưu kia kế nọ lấy mà nuôi thân.

Hoặc nuôi quyến thuộc xa gần,

Làm cho người phải lắm lần than van.

Tà dâm tội nặng muôn ngàn,

Liệu toan chước sách làm đàng chẳng ngay.

Vợ con người phải lầm tay,

Mất trinh thất tiết phải tai tiếng đời.

Xấu cha hổ mẹ nhiều lời,

Xa lìa chồng vợ rã rời lứa đôi.

Vọng ngôn giả dối ngoài môi,

Chuyện không nói có, có rồi nói không.

Dụng lời đâm thọc hai lòng,

Phân chia quyến thuộc, vợ, chồng, anh em

Mắng nhiếc chửi rủa pha gièm,

Xóm làng, cô bác, chị em không chừa.

Nói lời vô ích dây dưa,

Phí giờ quí báu hết trưa đến chiều.

Uống rượu sanh hại rất nhiều,

Ham ăn mê ngủ nói liều chẳng kiêng.

Say sưa ngã gió đi xiên,

Nằm bờ té bụi như điên khác nào.

Loạn tâm cuồng trí mòn hao,

Nhiều người vì rượu biết bao hư nhà.

Xan tham những của người ta,

Mong sang đoạt được lòng tà mới ưng.

Nết sân nóng giận không chừng,

Toàn làm hại chúng bâng khuâng trong lòng.

Si mê tin chạ chẳng phòng,

Nghe đâu theo đó không thông chánh tà.

Chẳng tin Phật Pháp cao xa,

Thậm thâm vi diệu bao la trên đời.

Nếu con cố ý phạm lời,

Hoặc là vô ý lỗi thời điều răn.

Hoặc xúi kẻ khác bạo tàn,

Hoặc nghe thấy ác lòng hằng vui theo.

Phạm nhằm ngũ giới thập điều.

Vì chưng thân, khẩu, ý, nhiều lần sai.

Lỗi từ kiếp trước lâu dài,

Đến kiếp hiện tại miệt mài lắm phen

Hoặc vì tà kiến đã quen,

Khinh khi Tam bảo lòng bèn chẳng tin

Cho rằng người chết hết sinh

Phạm vào đoạn kiến tội tình nặng thay.

Hoặc phạm thường kiến tội dày,

Sống sao đến thác, sanh lai như thường.

Tội nhiều kể cũng không lường,

Vì con ngu dốt không tường phân minh

Dể duôi Tam bảo hại mình,

Bởi chưng không thấu vô minh nghiệp tà.

Cho nên chơn tánh mới là,

Tối tăm chẳng rõ sai ngoa thuở đầu.

Hóa nên khờ dại đã lâu

Để cho hoàn cảnh mặc dầu kéo xoay

Khác nào bèo bị gió quây

Linh đinh giữa biển dật dờ bờ sông

Xét con tội nặng chập chồng

Kiếp xưa cho đến hiện trong kiếp này

Tôi xin sám hối từ đây

Nguyện cầu Tam bảo đức dày độ cho

Tội xưa chẳng hạn nhỏ to

Tôi nguyền dứt cả chẳng cho thêm vào

Tâm lành dốc chí nâng cao

Cải tà quy chánh chú vào Phật ngôn

Cho con khỏi chốn mê hồn

Đến nơi cõi Phật Thế Tôn gần kề

Thoát vòng khổ não tối mê

Hưởng miền cực lạc mọi bề thảnh thơi

Ngày nay dứt bỏ việc đời

Căn lành gieo giống chẳng rời công phu

Mặc ai danh lợi bôn xu

Con nguyền giữ hạnh người tu thoát trần

Trước là độ lấy bổn thân

Sau giúp quyến thuộc được phần tiêu diêu

Sám hối tội lỗi đủ điều

Duyên lành đâu cũng ít nhiều kết xây

Tôi xin hồi hướng quả này

Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường

Cùng là thân thích tha phương

Hoặc đã quá vãng hoặc thường hiện nay

Chúng sanh ba giới bốn loài

Vô tưởng hữu tưởng chẳng này đâu đâu

Nghe lời thành thật thỉnh cầu

Xin mau tụ hội lãnh thâu quả này

Bằng ai xa cách chưa hay

Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng

Thảy đều thọ lãnh hưởng chung

Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai

Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài

Đạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành

Nguyện cho Phật Pháp thạnh hành

Năm ngàn năm chẵn phước lành thế gian.

 

   

Kinh tụng rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh ‒ Sabbadisāsu mettāpharaṇaṃ

Sabbe puratthimāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe puratthimāya anudisāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe dakkhiṇāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe dakkhiṇāya anudisāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe pacchimāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe pacchimāya anudisāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uttarāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uttarāya anudisāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe uparimāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng trên, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe heṭṭhimāya disāya sattā averā sukhī hontu ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng dưới, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui.

Sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu, niddukkhā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, dīghāyukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhantu sukhī attānaṃ pariharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibhayā, sokappattā ca nissokā hontu sabbepi pāṇino ‒ Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng có bịnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc.

 (Khi có sự lo sợ hoặc tối, trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rãi tâm bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được yên vui)

 

Kinh hồi hướng ‒ Tilokavijayarājapattidānagāthā

Yaṃ kiñci kusalakammaṃ, kattabbaṃ kiriyaṃ mama, kāyena vācāmanasā, tidase sugataṃ kataṃ, ye sattā saññino atthi, ye ca sattā asaññino, kataṃ puññaphalaṃ mayhaṃ, sabbe bhāgī bhavantute, ye taṃ kataṃ suviditaṃ, dinnaṃ puññaphalaṃ mayā, ye ca tattha najānanti, devā gantvā nivedayuṃ, sabbe lokamhi ye sattā, jīvantāhārahetukā, manuññaṃ bhojanaṃ sabbe, labhantu mamacetasāti.

Diễn nghĩa ra quốc âm:

 

Phước căn tôi đã tạo thành

Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên

Đều là phước báu vững bền

Có thể tiếp chúng độ lên thiên đàng

Cung trời Đạo Lợi thọ nhàn

Chúng sanh hữu tưởng nhơn gian ta bà

Chư thiên, Phạm thiên cùng là

Bậc trời vô tưởng được mà hưởng an

Phước tôi hồi hướng dâng ban

Chúng sanh hay biết hoàn toàn lãnh thâu

Bằng ai chưa rõ lời cầu

Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay

Có người làm phước được rày

Lại đem hồi hướng hiện nay khắp cùng

Chúng sanh hoan hỷ lãnh chung

Hưởng được phước quý ung dung thanh nhàn

Chúng sanh thế giới các hàng

Bởi nhờ thọ thực sanh an mạng trường

Xin thâu phước báu cúng dường

Hóa thành vật thực mùi hương thoải lòng.

 

 

 

---

Sau khi làm xong việc tài thí hoặc pháp thí rồi cần phải đọc bài cầu nguyện sau này để dứt bỏ lòng ham muốn:

Idaṃ vata me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hontu anāgate ‒ Xin cho sự phước thí mà chúng tôi đã trong sạch làm đây, hãy là món duyên lành để dứt khỏi những điều ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm trong ngày vị lai.

‒ Chung ‒
‒ Dứt tác phẩm  Lễ bái Tam bảo và Cư sĩ luật tóm tắt (Pl.2503-Dl.1959) ‒
icon-pdf-2.jpg (28 KB)    doc.jpg (20 KB)

Thư viện Phật Giáo Nguyên Thủy
Bình luận
| Mới nhất