Phật ngôn -1

Trong “Pháp cú kinh Pāli” (Dhammapada), chúng tôi chọn lọc và trích dịch những câu nói ngắn gọn, ý nghĩa sâu xa của Đức Phật để cởi mở nghiệp báo cho chúng sanh, đưa họ đến bờ kia hoàn toàn an lạc. 

Hộ Tông Tỳ Khưu



PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
THERAVĀDA
-----

PHẬT NGÔN
(BUDDHA BHĀSITA)

Soạn giả TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG HỘ TÔNG (VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)

 

MỤC LỤC

  1. Attavagga ‒ Phần Tự Ngã.. 4
  2. Appamãdavagga ‒ Phần Không Sơ Ý.. 5

III. Kammavagga ‒ Phần Nghiệp. 5

  1. Kilesavagga ‒ Phần Cấu Uế. 6
  2. Kodhavagga ‒ Phần Phẫn Nộ.. 7
  3. Khantivagga ‒ Phần Nhẫn.. 8

VII. Cittavagga ‒ Phần Tâm.. 8

VIII. Jayavagga ‒ Phần Thắng.. 10

  1. Danavagga ‒ Phần Thí 10
  2. Dukkhavagga ‒ Phần Khổ.. 11
  3. Dhammavagga ‒ Phần Phán.. 11

XII. Pakkinnakavaga ‒ Phần Tạp. 12

XIII. Pannavagga ‒ Phần Trí Tuệ. 14

XIV. Pamadavagga ‒ Phần Sơ Ý.. 15

  1. Papavagga ‒ Phần Ác. 15

XVI. Puggalavagga ‒ Phần Người 16

XVII. Punnavagga ‒ Phần Phước. 20

XVIII. Maccuvagga ‒ Phần Tử Thần.. 21

XIX. Mittagga ‒ Phần Bạn.. 21

  1. Yacavagga ‒ Phần Khất. 22

XXI. Rajavagga ‒ Phần Vua.. 22

XXII. Vacavagga ‒ Phần Ngôn.. 22

XXIII. Viriyavagga ‒ Phần Cần Mẫn.. 23

XXIV. Saccavagga ‒ Phần Chân Thật. 23

XXV. Veravagga ‒ Phần Thù.. 23

XXVI. Santutthavagga ‒ Phần Hỷ Duyệt) 23

XXVII. Samanavagga ‒ Phần Sa-môn.. 23

XXVIII. Samaggivagga ‒ Phần Hòa.. 24

XXIX. Silavagga ‒ Phần Giới 24

XXX. Sevanavagga ‒ Phần Kết Giao.. 25

XXXI. Sativagga ‒ Trí Nhớ.. 26

XXXII. Saddhãvagga ‒ Phần Tín.. 26

 

 

 

 

 

LỜI TỰA

       Trong “Pháp cú kinh Pāli” (Dhammapada), chúng tôi chọn lọc và trích dịch những câu nói ngắn gọn, ý nghĩa sâu xa của Đức Phật để cởi mở nghiệp báo cho chúng sanh, đưa họ đến bờ kia hoàn toàn an lạc.

       Xem nghiệm Phật ngôn này, độc giả sẽ thấy trong đó những lời thâm thúy, khiến tinh thần chúng ta thanh thản thư thái an vui và tâm hồn chúng ta được giải thoát nghiệp đau khổ, đảo điên, từ lâu của cuộc đời vô thường giả tạm.

       Chúng tôi hy vọng Kinh này đem đến cho chư quí tín đồ mộ đạo nhiều pháp vị thanh cao để vững bước trên đường giác ngộ.

       Xin hồi hướng quả phúc sự trích yếu Phật ngôn này đến tất cả chư Thiên trong Sa bà thế giới, sau khi đã hoan hỷ dung nạp rồi, cầu các Ngài hộ trì Phật Pháp được thạnh hành đến 5 ngàn năm, Chư Tăng, Thầy Tổ, thân quyến, tín đồ và chúng tôi hằng được sức khỏe dồi dào, mau đạt đến mục đích cứu cánh giải thoát.

Mong thay

                                                                             Hộ Tông Tỳ Khưu

---

 

 

Namo Buddhāya

---

 

I. Attavagga[1] ‒ Phần Tự Ngã

1) Attā have jitaṃ seyyo ‒ Thắng mình mới thật là xuất chúng.

2) Attā hi kira duddamo ‒ Nghe rằng: tự chế được là khó.

3) Attā sudanto purisassa joti ‒ Tự mình chế ngự một cách chân chánh, đó là ánh sáng chói ngời của người nam.

4) Attā hi attano nātho ‒ Chính mình là nơi dung thân của mình.

5) Attā hi paranaṃ piyo ‒ Chính mình là nơi thương yêu nhứt của mình.

6) Natthi attasamaṃ pemaṃ ‒ Chẳng thương ai bằng thương mình.  

7) Attatthapañña asucī manussā ‒ Kẻ ích kỷ là người không trong sạch.

8) Attānaṃ damavanti paṇḍitā ‒ Bậc minh triết nên tự chế.

9) Attānaṃ damayanti subbatā ‒ Những người có phẩm hạnh tốt nên tự chế.

10) Attanā hi sudantena nāthaṃ labhati dullabhaṃ ‒ Người đã tự chế chân chánh rồi gọi là có nơi dung thân (mà kẻ khác) khó được.

11) Attãnañce piyaṃ jaññā rakkheyya naṃ surakkhitaṃ ‒ Nếu biết mình là nơi thương yêu, thì phải tự bảo vệ cho chân chánh.

12) Pariyedappeyya attānaṃ cittaklesehi paṇḍito ‒ Bậc minh triết nên làm cho tâm mình trong sáng khỏi điều dơ bẩn.

13) Attānañce tatha kayirā yathaññamanusāsati ‒ Dạy kẻ khác thế nào, thì tự mình cũng thực hành như vậy.

14) Attanā codayattānaṃ ‒ Phải tự tỉnh lấy mình.

15) Paṭimaṃ setamattanā ‒ Phải tự phê bình (tự kiểm thảo sự hành động và ý tưởng của chính mình).

16) Attãnurakkhi bhave mã aḍayhi ‒ Hãy là người chú ý bảo vệ mình đừng cho ngã lòng, phiền muộn nóng nảy.

17) Attānaṃ nāṭivatteyya ‒ Người không nên quên mình.

18) Attādathaṃ paratthena

     Bahunāpi na bāpaye

     Attadatthabiññāya                

     Sadatthapasuto siyā.

Không nên phá hoại lợi ích của mình vì lợi ích kẻ khác, dầu là nhiều. Biết lợi ích của mình rồi, nên tận tụy tìm tòi lợi ích của mình.

19) Attānañce piyam jaññā

     Na naṃ pāpena saṃyuje.

Nếu biết mình là nơi thương yêu của mình thì không nên làm việc dữ.

20) Attānañce tathā kariyā

     Yathañña manusāsati

     Sudanto vata dametha

     Attã hi kira duddamo.

Dạy kẻ khác thế nào, thì phải tự mình thực hành như vậy. Đã tự rèn luyện chân chánh rồi mới huấn luyện kẻ khác, vì được nghe rằng: tự hóa là khó.

21) Attānameva pathanaṃ

     Paṭirāpe niveseyya

     Athaññaṃ nusāseyya

     Na kilisseyya paṇḍito

Bậc minh triết trú trong đức hạnh thích hợp trước, rồi tiếp tục giáo hóa kẻ khác sau, thì không bị ô nhiễm.

 

  1. Appamãdavagga[2] ‒ Phần Không Sơ Ý

22) Appamādo anataṃ padaṃ ‒ Không sơ ý là đạo bất diệt.

23) Appamādañca medhāvi dhanaṃ setthaṃva rakkhati ‒ Bậc minh triết hằng bảo tồn pháp không sơ ý như của quý nhất.

24) Appamādaṃ pasaṃsanti ‒ Bậc minh triết hằng ca tụng pháp không sơ ý.

25) Appamādo pāmodanti ‒ Bậc minh triết hằng hoan hỷ pháp không sơ ý.

26) Appāmatto ubho aṭṭhe adhigganhāti paṇḍito ‒ Bậc minh triết không sơ ý bằng được cả hai lợi ích.

27) Appamādaratā hotha ‒ Các người hãy lấy làm vui thích trong pháp không sơ ý.

28) Appamatto pamattesu

     Suttesu bahujāgaro

     Abalassaṃva sīghasso

     Hitvā yā i sumedhaso.

Bậc minh triết không sơ ý trong khi kẻ khác sơ ý, thức trong lúc kẻ khác ngủ, hằng bỏ kẻ ngu như ngựa lẹ chân chạy bỏ ngựa yếu vậy.

29) Uṭṭhānavato satimato

     Sucikamassa nisammakārino

     Saññatassa ca dhammajīvino

     Appamattassa yasobhivaḍḍhati.

Tước vị hằng tăng gia đến người kiên cố, có trí nhớ, có công việc gọn gàng, quan sát rồi mới hành động, đã ức chế rồi thì được ở an theo pháp và không sơ ý.

30) Mā pamādamanuyuñjetha

     Mā kāmarasanthavaṃ

     Appamatto hi ṇāyanto

     Pāppoti paramaṃ sukhaṃ

Đừng sơ ý, đừng thân thiết vì thế lực ưa thích trong tình dục; bởi người không sơ ý hay quán tưởng, thì hằng đến nơi cực lạc.

III. Kammavagga ‒ Phần Nghiệp

31) Kammaṃ sātte vibbajati

     Yadidaṃ hīnappaṇīttāya.

Nghiệp hằng phân hạng chúng sanh, thấp hèn, cao sang.

32) Pacchā tappati dukkaṭaṃ ‒ Nghiệp ác hằng thiêu hủy về sau.

33) Na taṃ kammaṃ kataṃ sādhu yaṃ katvā anutappati ‒ Tạo nghiệp nào rồi tâm nóng nảy về sau, nghiệp đó là có hại.

34) Tañca kammaṃ kataṃ sādhu yaṃ katvā ñānutappati ‒ Tạo nghiệp nào rồi tâm không nóng nảy về sau, nghiệp đó là có lợi.

35) Sukarāni asādhūni attāno ahitāni ca ‒ Công việc không sinh lợi và vô ích đến mình là việc để làm.

36) Yaṃ ve hi tañca sādhuñca taṃ ve paramadukkaraṃ ‒ Việc nào hữu ích và có lợi, việc ấy rất khó làm được.

37) Kalyānakārī kalyānaṃ ca pāpakãṃ ‒ Làm lành được lành, làm dữ gặp dữ.

38) Kammunā vattatī loko ‒ Chúng sanh hằng cư xử theo nghiệp.

39) Nisamma karaṇaṃ seyyo ‒ Kẻ nào cân nhắc trước rồi mới làm là hoàn toàn hơn.

40) Katassa nathi paṭikāraṃ ‒ Việc đã làm, sửa chữa không được.

41) Paṭikacceva taṃ kayirã yaṃ jaññā hitamattano ‒ Biết việc nào hữu ích đến mình thì nên làm gấp việc ấy trước.

42) Kayirā ce kayirāthenaṃ ‒ Nếu phải làm thì nên làm việc ấy (tận tụy).

43) Kareyya vākyaṃ anukampakānaṃ ‒ Phải làm theo lời của bậc thương mình.

44) Kiccānukubbassa kereyya kiccam ‒ Phải làm bổn phận với người giúp mình.

45) Yo pubbe katakalyāṇo

     Katatt nāvabujjhati

     Atthā tassa palujjanti

     Ye honti abhipatthitā                  

     Kẻ nào được người khác thi ân làm lợi ích cho khi trước, mà không nhớ (ơn của họ) thì lợi ích mà kẻ đó ao ước hằng hư hỏng.

46) Sukhakāmāni bhūtāni

     Yo daṇḍena vihiṃsati

     Attano sukhamesāno

     Pecca so na labhate sukham.

     Người nào tìm an vui cho mình, nhưng dùng quyền thế hãm hại chúng sinh (cần sự mát mẻ), người đó từ trần rồi không được vui.

IV. Kilesavagga[3] ‒ Phần Cấu Uế

47) Sankapparāgo purisassa kāmo ‒ Lòng dục vọng vì suy tưởng là điều vui thích của người.

48) Kāmchi lokamhi na hatthi titti ‒ Sự thỏa mãn bằng dục vọng không có trong đời.

49) Natthi kāmā paraṃ dukhaṃ ‒ Nổi khổ hơn lòng dục vọng hằng chẳng có.

50) Icchā lokasmi dujjahā ‒ Từ bỏ được sự ước vọng là khó trong đời.

51) Icchā naraṃ parikassati ‒ Sự nguyện vọng hằng dẩn người đi.

52) Natthi rāgasamo aggi ‒ Chẳng có lửa nào bằng nhục dục.

53) Lobho dhammānaṃ paripantho ‒ Sự xan tham là nguy hiểm của các Pháp.

54) Atilobho hi pāpako ‒ Sự xan tham thái quá là xấu xa thật.

55) Natthi mohasamaṃ jālaṃ ‒ Chẳng có lưới nào bằng si mê.

56) Bhiyyo ca kāme abhipatthayanti ‒ Người thọ dụng thú vui càng ưa thích thú vui bội phần.

57) Ũṇa va hutvāna jahanti dehaṃ ‒ Người thọ dụng khoái lạc là kẻ hao mòn tiều tụy rồi từ bỏ thân thể (chết).

58) Avijjānivutā posā ‒ Chúng nhân đều bị vô minh che phủ.

59) Kāmā katukā āsīvisūpamā

     Yesu mucchitā bālā

     Te dīgharattaṃ niraye

     Samappitā haññante dukkhitā.

     Những dục lạc đều là chua cay như nọc độc, hằng ám ảnh kẻ si mê, họ phải chịu khổ trong địa ngục và chịu khổ lâu dài.

60) Kuhā laddhā lapā singī

     Unnalā cāsamāhitā

     Na te dhamme virūhanti sammāsambudhadesite.

     Người lừa phỉnh, ngạo mạn, nói lời nhảm nhí, khoe khoang, tự cao, không kiên cố, hằng không tiến triển trong pháp mà Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác đã thuyết rồi.

61) Kodhassa visamūla sa

     Madhuraggassa pasaṃsanti

     Vadhaṃ ariya pasaṃsanti

     Tauhi chetvā na socati.

     Bà la môn; Bậc thánh nhân hằng ca tụng người diệt được gốc độc của hận, nên có quả ngon ngọt, vì người đã diệt hận rồi không phiền muộn nữa.

62) Niddaṃ na bahulīkareyya

     Jāga riyam bhajeyya ātāpī

     Tandim māyaṃ khiḍḍaṃ

     Methūnaṃ vibbajahe savibhūsaṃ.

     Người có sự tinh tấn không nên ngủ nhiều, nên thân cận pháp đánh thức, phải từ bỏ sự lười biếng, nóng nảy, xảo trá, cười nhạo, đùa giỡn và nhục dục lẫn cả vật trang sức.

63) Paravajjānuphssissa

Niccaṃ ujjhānasaññino

Āsvā tassa vaḍḍhanti

Ārā so āsavakkhayā.

     Lậu hoặc[4] hằng tiến triển đến người chỉ thấy tội kẻ khác, hay nhìn chăm chăm lỗi người, họ là kẻ xa pháp diệt lậu hoặc.

64) Yā kācimā duggati yo

     Asmiṇ loke paramhi ca

     Avijjāmūlakā sabbā

     Icchā lobhasamussayā.

     Khu vực khổ trong cõi này và cõi sau, có vô minh là gốc, có ganh tỵ và xan tham là xương sườn.

65) Yena sallena otiṇṇo

     Disā sabbā vidhāvati sabhā vidhāvati

     Tameva sallaṃ abbuyha

     Na dhāvati na sīdati

     Người bị tên hằng chới với vẩn vơ trong khắp hướng khi được nhổ tên ra rồi thì không quay cuồng và chìm sâu nữa.

V. Kodhavagga[5] ‒ Phần Phẫn Nộ

66) Na hi sadhu kodho ‒ Khí giận không tốt đâu.

67) Kodho satthamalaṃ loke ‒ Khí giận là võ khí dơ bẩn trong đời.

68) Anatthajanano kodho ‒ Sự tức giận sanh ra mối hại.

69) Kodho cittappakopano ‒ Khí giận làm cho tâm hồn loạn.

70) Andhatamaṃ tathā hoti.

     Yaṃ kodho sahate naraṃ.

     Khí giận đàn áp người lúc nào, thì sự tối tăm hằng có trong lúc ấy.

71) Appo hutvā bahu hoti

     Vaddhate so akhantijo.

     Sự tức giận ít thành nhiều, nảy mầm vì không kiên nhẫn.

72) Kodho dummedhago caro ‒ Sự tức giận là cảnh giới của kẻ có trí óc hèn hạ.

73) Natthi dosasamo gali ‒ Tội ác không bằng sân cấu.[6]

74) Doso kodhasamuṭṭhāno ‒ Sân cấu có tức giận là nhân.

75) Kodhaṃ ghatvā sukhaṃ seti ‒ Diệt được khí giận thì ngủ được an vui.

76) Kodhaṃ ghatvā na socati ‒ Diệt được khí giận thì không phiền muộn.

77) Kodhābhibhūto kusalaṃ johāti ‒ Người bị khí giận đàn áp, hằng bỏ thiện pháp.

78) Kodhano dubbanno hoti ‒ Người hay giận hằng có màu da xấu xí.

79) Dukkhaṃ sayati kodhano ‒ Người hay giận hằng chịu khổ.

80) Nātimittā suhajjā ca parivajjenti kodhanaṃ ‒ Thân quyến, bè bạn hằng lánh người hay giận.

81) Kuddho dhammaṃ na passati ‒ Người giận hằng không thấy pháp.

82) Yaṃ kuddho uparodheti sukaraṃ viya dukkaraṃ ‒ Người giận phá vật gì dù vật ấy khó làm cũng như dễ.

83) Pachā so vigate kodhe

     Aggidadhova tappati.

     Sau khi hết giận, họ hằng phiền muộn.

84) Hanti kuddho samātaraṃ ‒ Người giận có thể giết mẹ cha được, là người mất cả danh giá.

85) Kodhaṃ damena ucchinde ‒ Phải cắt khí giận bằng sự ức chế tâm.

86) Nā kodhassa vasaṃ gami ‒ Đừng ở dưới quyền của sự giận.

VI. Khantivagga ‒ Phần Nhẫn

87) Khanti paramaṃ hoti tītikhā ‒ Nhẫn nại là pháp thiêu hủy hay nhất.

88) Khanti sāhasavāranā ‒ Nhẫn nại ngăn được sự dữ tợn.

89) Khanti hitasukhāvahā ‒ Nhẫn nại đem đến lợi ích an vui.

90) Khanti tapo tapassino ‒ Nhẫn nại là pháp thiêu hủy của các bậc có tinh tấn.

91) Khanti balaṃ va yatīnaṃ ‒ Nhẫn nhục là sức mạnh của bậc tu khổ hạnh.

92) Khantibalā samanabrāhmanā ‒ Sa-môn, Bà la môn có sự nhẫn nại là sức mạnh.

93) Manāpo hoti khantiko ‒ Người có nhẫn nại hằng là nơi hài lòng (của kẻ khác).

94) Attanopi paresañcā

     Atthavaho va khantiko

     Saggamokkhagamaṃ maggaṃ

     Arulho ho i khantiko.

     Người có sự nhẫn nại hằng đem sự lợi ích đến mình và kẻ khác, người có sự nhẫn nại là bậc tạo đường đi đến cõi trời và Niết-bàn.

95) Kevalānaṃpi pāpānaṃ

Khanti mūlaṃ nikantati

Garahakalahādīnaṃ

Mūlaṃ khanti khantiko.

Nhẫn nại hằng bứng gốc tất cả tội lỗi, người có nhẫn nại gọi là hủy diệt gốc, nhất là lỗi khiển trách và tranh biện.

96) Khantiko mettavā lābhī

Yassasī sukhasīlavā

Piyo devamanussānaṃ

Manāpo hoti khantiko.

Người có sự nhẫn nại và lòng bác ái hằng là bậc có lợi, có tước vị và an vui mãi mãi, người có sự nhẫn nại là nơi thương yêu của Chư Thiên và nhân loại.

97) Satthuno vacanovādaṃ

     Karotiyeva khantiko

     Paramāya ca pūjãya

Jinaṃ pūjeti khantiko.

Người có sự nhẫn nại gọi là hành theo giáo huấn của Đấng Giáo Chủ, người có sự nhẫn nại gọi là cúng dường Đức Toàn Thắng (Phật) bằng cách cúng dường cao thượng.

98) Sīlasamādhigunānaṃ

Khanti padhānakāranaṃ

Sabbepi kusalā dhammā

Khantiyāyeva vaddhanti te.

Nhẫn nại là chủ yếu, là nguyên nhân của các đức, tức là Giới và Định. Tất cả thiện pháp hằng tiến triển bằng nhẫn nại mà thôi.

VII. Cittavagga ‒ Phần Tâm

99) Citte sankiliṭṭhe duggati pātijankhā ‒ Khi tâm không tinh khiết thì khổ cảnh là nơi tin tưởng.

100) Citte asaṇkiliṭṭhe sugati pātikankhā ‒ Khi tâm tinh khiết thì nhàn cảnh là nơi mong mỏi.

101) Cittena niyati loko ‒ Đời hằng bị tâm dẫn đi.

102) Cittassa damatho sādhu ‒ Sự ức chế tâm là chân chánh.

103) Cittaṃ sukhāvahaṃ ‒ Tâm được phòng vệ rồi đem vui đến.

104) Vihaññati cittavasānuvattī ‒ Người hành động theo quyền lực của tâm thì phải khổ.

105) Cittaṃ attano ujukamaṃsu ‒ Người sáng trí khiến tâm mình tín ngưỡng chân chánh.

106) Telabattaṇ yathā barihareyya evaṃ sacittamanurakkhe ‒ Phải bảo vệ tâm mình như người giữ bát dầu đầy.

107) Sacittamanurakkhatha ‒  Hãy chú ý gìn giữ tâm mình.

108) Cittaṃ rakkhatha medhāvī ‒ Bậc trí tuệ nên gìn giữ cái tâm.

109) Yato ca pāpakaṃ tato tato mano nivāraye ‒ Tôi sanh từ đối tượng nào, phải phòng ngừa tâm khỏi đối tượng đó.

110) Anavatthitacittassa

Saddhammaṃ avijānato

Pariplavapasādassa

Pannā na paripūrati

Khi tâm không trú vững, không hiểu chánh pháp và có sự tín ngưỡng không chân chánh thì trí tuệ không hoàn hão.

111) Ānāpānassati yassa

Aparipunnā abhāvitā

Kāyepi iñjito hoti

Cittampi hoti iñjitaṃ.

Tức quan mà người nào không rèn luyện cho hoàn hảo, cả thân lẫn tâm người ấy hằng rung động.

112) Ānāpānassati yassa

Paripunnā abhāvitā

Kāyepi hoti aniñjito hoti

Cittampi hoti aniñjitaṃ.

Tức quan mà người nào đã rèn luyện hoàn hảo rồi, cả thân lẫn tâm của người ấy hằng không lay chuyển.

113) Diso dasaṃ yantaṃ kariyā

Verī vā pana verinaṃ

Micchāpanihitaṃ cittaṃ

Pāpiyo naṃ tato kare.

Kẻ cướp cùng kẻ cướp, hoặc người thù với người thù hằng phá hại lẫn nhau, tâm mà người điều khiển sai thì làm cho họ đê hèn hơn nữa,

114) Dūrañgamaṃ ekacaraṃ

Asarīraṃ guhāsayaṃ

Ye cittaṃ saññamessanti

Mokkhanti mārabandhanā

Người ức chế tâm hay trải đi một mình, vô hình có động (1), tức là thân thể, nơi cư trú người đó sẽ thoát ly sự trói buộc của Ma Vương.

115) Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ

Durakkhaṃ dunnivārayaṃ

Ujuṃ karoti medhāvī

Usukarova tejanaṃ.

Cái tâm hay rung chuyển bất thường, khó phòng ngừa ngăn cấm, bậc trí tuệ khiến nó trở lên chân chánh được, như thợ bắn cung uốn tên cho ngay vậy.

116) Yathā ogāraṃ ducchannaṃ

Vuṭṭhī samativijjhati

Evaṃ abhāvitaṃ cittaṃ

Rāgo samativijjhati

Mưa hằng rỉ chảy vào nhà không được lợp kín thế nào. Tình dục hằng rịn thấm vào tâm không rèn luyện được như vậy.

117) Yo ca saddaparittāsī

Vane vātamigo yathā

Lahucittotti taṃ āhu

Nāssa sampajjate vataṃ.

Kẻ nào hay kinh sợ tiếng như loài hưu trong rừng gọi là kẻ nhẹ dạ, thì nghĩa vụ của kẻ đó hằng không thành tựu.

118) Vārijova thale khitto

Okamokatanbhato

Pariphandatidaṃ cittaṃ

Māradheyyaṃ pahātave.

Tâm bị đem ra khỏi chỗ ở là ngũ dục cho thoát khỏi khu vực của ma vương, thì hằng vẫy vùng như cá bị bắt lên khỏi nước liệng trên khô vậy.

119) Saññāya viparīyesā

Cittante paridayhati

Nimittaṃ parivajjehi

Subhaṃ rāgupasañhitaṃ.

Tâm của người hằng khích động vì phân biện sai lầm, ngươi hãy chừa bỏ đối tượng xinh đẹp khiêu gợi lửa lòng đi.

120) Selo yathā ekaghano

Vātena na samīrati

Evaṃ nindā pasaṃsāsu

Na samīnjanti panditā.

Tảng đá đặc không lay động vì gió, thế nào; bậc minh triết hằng không rung chuyển với lời khiển trách hay ca tụng như vậy.

VIII. Jayavagga ‒ Phần Thắng

121) Jayaṃ veraṃ pasavati ‒ Người thắng hằng gây oan trái.

122) Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti ‒ Thí pháp thắng tất cả sự thí.

123) Sabbarasaṃ dhammaraso jināti ‒ Vị của pháp thắng tất cả các vị.

124) Sabbaratiṃ dhammarati jināti_ Ưa thích pháp thắng tất cả sự ưa thích.

125) Tanhākkhayo sabbadakkhaṃ jināti ‒ Diệt tận ái dục thắng tất cả các thứ khổ.

126) Na taṃ jitaṃ sādhu jitaṃ

Yaṃ jitaṃ avajiyyati

Sự thắng mà bại trở lại là không tốt.

127) Taṃ khi jitaṃ

Sādhu jitaṃ

Yaṃ jitaṃ nāvajiyyati.

Sự thắng mà không bại trở lại là tốt.

128) Akkodhena jine kodhaṃ ‒ Nên thắng người giận bằng sự không giận.

129) Asādhuṃ sādhunā jine ‒ Nên thắng người xấu bằng sự tốt.

130) Jine kadariyaṃ dānena ‒ Nên thắng người keo kiệt bằng sự biếu cho.

131) Saccenālikavādinaṃ ‒ Nên thắng kẻ nói dối bằng lời nói thật.

IX. Danavagga ‒ Phần Thí

132) Natthi citte pasannamhi

Appakā nāma dakkhinā.

Khi tâm trong sáng rồi bố thí cho người giới đức thì không gọi là ít.

133) Dadaṃ mittāni ganthati ‒ Người cho hằng kết bạn được.

134) Viceyya dānaṃ sugatappasatthaṃ ‒ Đức Phật tán dương sự chọn người nên cho.

135) Sukhassa dā’ā medhāvāī

Sukhaṃ so adhigacchati.

Bậc trí tuệ cho vui hằng được vui.

136) Manāpadāyī labhati manāpaṃ ‒ Người cho vật vừa lòng hằng được vật vừa lòng.

137) Seṭṭhandado seṭṭhamupeti ṭhānaṃ ‒ Người cho vật quý trọng hằng đến nơi quý trọng.

138) Aggassa dātā labhate punaggaṃ ‒ Người cho vật vô giá hằng được vật vô giá.

139) Dadato pūnaṃ pavaddhati ‒ Phước của người cho hằng được tăng gia.

140) Dadeyya puriso dānaṃ ‒ Người nên bố thí.

141) Aggasmiṃ dānaṃ dadataṃ

Aggaṃ puññaṃ pavaddhati

Aggaṃ āyu ca vaṇṇo ca

Yaso kitti sukhaṃ balaṃ.

Phước quý nhất hằng được tăng gia đến thí chủ cho vật quý nhất, tuổi thọ, sắc đẹp, tước vị, danh vọng, an vui và sức mạnh quý nhất cũng đều được gia tăng.

142) Nīharetheva dānena

Dinnaṃ hoti sunibbhataṃ

Dinnaṃ sukhaphalaṃ hoti

Nādinnaṃ hoti taṃ tathā.

Nên đem của ra bố thí, vật bố thí hằng là vật đem ra chân chánh, của đã cho hằng có quả vui, phẩm vật chưa cho không có kết quả.

143) Pubbe dānādikaṃ ditvā

Idāṃ labhatī sukhaṃ

Mūleva siṅjitaṃ hoti

Agge ca phaladāyakaṃ.

Người đã bố thí trong ngày trước hằng được vui trong hiện tại, như cây gặp nước từ nơi gốc cho quả đến ngọn.

144) So ca sabbadado hoti

Yo dadāti upassayaṃ

Amatando ca so hoti

Amatando ca so hoti

Yo dhammamanusāsati.

Người cho chỗ nghĩ gọi là cho tất cả mọi vật dụng, người nào dạy pháp mãi mãi gọi là cho sự bất diệt.

X. Dukkhavagga ‒ Phần Khổ

145) Nathi khandhasamā dukkhā ‒ Chẳng có khổ nào bằng ngũ uẩn.

146) Sankhārā paramā dukkhā ‒ Pháp hành là khổ nhất.

147) Dukhaṃ anātho viharati ‒ Người không nơi dung thân thì sự sinh tồn là khổ.

148) Dukhaṃ seti parājito ‒ Kẻ bại hằng chịu khổ.

149) Akiñcanaṃ nānupatanti dukkhā ‒ Khổ hằng không xảy đến cho người hết quyến luyến.

XI. Dhammavagga ‒ Phần Phán

150) Manopubbangamā dhammā ‒ Các pháp đều có tâm hướng dẫn.

151) Dhammo hisinaṃ dhajo ‒ Pháp là quả nhiên là tiêu biểu của bậc hiền nhân.

152) Dhammo siciṇṇo sukkhamāvahāti ‒ Pháp mà người thực hành chân chính rồi đem sự an vui đến.

153) Sabbesaṃ sahito hoti

Sadhamme supaṭiṭṭhito.

Người đã tin vững trong chánh pháp là bực ủng hộ đại chúng.

154) Dhammapīti sukhaṃ seti ‒ Người hoan hỷ với pháp hằng ngủ được vui.

155) Dhammacārī sukhaṃ seti ‒ Người thực hành pháp hằng ngủ được vui.

156) Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ ‒ Pháp quả nhiên hộ người hành pháp.

157) Na duggatiṃ gacchati dhammacāri ‒ Người hành pháp không đi đến khổ cảnh.

158) Dhamme ṭhitaṃ na vijahati kitti ‒ Thanh danh hằng không lìa người trú trong pháp.

159) Dhamme ṭhitā ye na karonti pāpakaṃ ‒ Người trú trong pháp hằng không làm tội.

160) Sabbe dhammā nālaṃ abhinivesāya ‒ Không nên cố chấp đặc tính của pháp.

161) Yoniso viciṇe dhammaṃ ‒ Phải chọn pháp một cách thận trọng.

162) Dhammaṃ care sucaritaṃ ‒ Phải hành pháp cho chơn chánh.

163) Sadhammo garukātabbo ‒ Phải thận trọng đối với chánh pháp.

164) Dhammaṃ patipannassa

Yo dhammanusāvati

Tassa ce vacanaṃ kariyā

Na so gaccheyya duggatiṃ.

Người nào dạy pháp cho kẻ bất chánh, nếu họ tuân theo, họ sẽ không đến cảnh khổ.

165) Upārambhacitto dammedho

Suṇāti jinasāsanaṃ

Ārakā hoti saddhammā

Nabhaso pathavī yathā.

Người thấp hèn có tâm ương ngạnh, dầu nghe thánh huấn của Đức Phật mà cũng xa xăm chánh pháp, thì ví như địa cầu xa tít mặt trời vậy.

166) Nikkuhā nillapā dhīrā

Athaddhā susamāhitā

Te ve dhamme virūhanti

Sammāsambuddhadesite.

Người không dối trá, không nói lời nhảm nhí, có trí tuệ, không kiêu căng, có tâm kiên cố, hằng tiến triển trong pháp mà Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác đã giảng giải rồi.

167) Yassa sabrabmacārīsu

Gāravo nūpalabbhati

Ārakā hoti saddhammā

Nabhaṃ paṭhaviyā yathā.

Người không tôn kính bậc phạm hạnh, họ hằng xa khỏi chánh pháp như mặt trời với địa cầu vậy.

168) Yo icche dibbabhogañca

Dibbamāyuṃ yasaṃ sukhaṃ

Pāpā parivajjetvā

Tividhaṃ dhammamācare.

Người nào mong được của cải, tuổi thọ, tước vị, an vui, cõi trời, người đó nên tránh các tội lỗi, rồi phải thực hành ba pháp đức hạnh (sucarita).[7]

169) Yo ca appampi sutvāna

Dhammaṃ kāyena pasati

Sa ve dhammadharo hoti

Yo dhamma nappamajjati.

Người nào dù nghe pháp ít, nhưng thấy pháp thân và không sơ ý trong pháp, người đó được gọi là người hộ pháp.

170) Yoniso viciṇe dhammaṃ

Paññāyatthaṃ vipassatiṃ

Pajjotasseva nibbānaṃ

Vimokho hoti ce taso.

Phải nên chọn pháp bằng cách khôn ngoan và thấy rõ nội dung của pháp bằng trí tuệ, thì hằng có sự giải thoát của tâm như tắt ngọn đèn chóa mắt vậy.

XII. Pakkinnakavaga ‒ Phần Tạp

171) Aṭṭhanṅgiko ca maggānaṃ khemaṃ amagāminaṃ ‒ Trong tất cả đạo, đạo có 8 chi là đạo an toàn đưa đến bất diệt pháp.

172) Visudhi sabbaklesehi hoti dukkhehi nibbuti ‒ Sự trong sạch, khỏi điều dơ bẩn, là sự dập tắt tất cả khổ.

173) Yakiñci samudadammaṃ sabbantaṃ nirodhadhammaṃ ‒ Những pháp nào sanh ra tự nhiên, các pháp ấy hầu hết diệt tự nhiên.

174) Yathāpaccayaṃ pavadanti ‒ Vật gì mà duyên cớ tạo thành, hằng hành động theo duyên cớ.

175) Ãrogyaparmā labhā ‒ Không bịnh là điều lợi nhất.

176) Sankhārā sassatā natthi ‒ Các pháp hành không vĩnh viễn.

177) Ãniccā vata sankhārā ‒ Ôi! Các hành pháp đều vô thường.

178) Dullabhaṃ dassanaṃ hoti sambuddhānaṃ abhiṇhaso ‒ Khó thấy Đức Phật được thường thường.

179) Mattaññutā sadā sādhu ‒ Sự biết tiết độ khiến lợi ích thành tựu mãi mãi.

180) Hiriottappiyaññeva

Lokaṃ pāleti sādhukam.

Sự hổ thẹn và ghê sợ (tội) hằng độ đời có đức hạnh.

181) Lokopatthambhikā mettā ‒ Bác ái là pháp ủng hộ đời.

182) Arati lokansāsikā ‒ Ganh tỵ là nguyên nhân làm cho đời diệt vong.

183) Mahāpurisabhāvassa lakkhaṇaṃ karuṇãsaho ‒ Khí chất bất khả kháng đối với lòng trắc ẩn là đặc tính của bậc đại nhân.

184) Nimittaṃ sādhurūpānaṃ kataññukatavedita ‒ Sự tri ân là dấu hiệu của người lương thiện.

185) Sabbañce paṭhaviṃ dajjā nākataññumabhirādhaye ‒ Dầu thí toàn quả địa cầu cũng không làm cho kẻ bất nghĩa yêu chuộng được.

186) Hananti bhogā dummedhaṃ ‒ Tài sản thường hại người đần độn.

187) Sakkāro kāpurisaṃ hanti ‒ Danh dự thường hại kẻ đê hèn.

188) Kiccho manussapaṭilābho ‒ Được làm người là việc khó.

189) Kicchaṃ saddhammassavanaṃ ‒ Được nghe pháp của bậc tịnh giả là việc khó.

190) Kiccho buddhānamuppādo ‒ Sự ra đời của bậc Giác Ngộ là việc khó.

191) Anuṭṭhānamalā gharā ‒ Nhà không vững chắc là dơ bẩn.

192) Malaṃ vaṇṇassa kosajjaṃ ‒ Sự lười biếng là dơ bẩn của màu da.

193) Malitthiyā duccaritaṃ ‒ Hành vi xấu xa bị ô nhiễm bởi phụ nữ.

194) Suddhi asuddhi paccataṃ ‒ Sự tinh khiết và không tinh khiết thuộc về cá nhân.

195) Nāñño aññam visodhaye ‒ Người này không thể cho kẻ kia sự trong sạch.

196) Sudassaṃ vajjamaññesaṃ

Attano pana duddasaṃ.

Việc quấy của người thì dễ thấy, của mình thì khó thấy.

197) Natthi loke raho nāma

Pāpakammaṃ pākubbato

Nơi kín của người tạo ác nghiệp không có trong đời.

198) Rūpaṃ jīvati maccānaṃ

Nāmagottaṃ najīrati.

Sắc thân của chúng sanh tiêu diệt, nhưng danh không mất (Sắc thì tàn danh bất hoại).

199) Thīnaṃ bhāvo durājāno ‒ Đặc tính của phụ nữ khó biết được.

200) Mantīsu akutūhalaṃ ‒ Trong khi thảo luận không cần người nói lời nhảm nhí.

201) Atthe jāte ca panṇḍitaṃ ‒ Trong khi biến cố, phải cần đến bậc minh triết.

202) Āpadāsu thāmo veditabbo ‒ Biết được tâm lực trong lúc có nguy hiểm.

203) Yaso laddhā na majeyya ‒ Được tước vị rồi không nên say mê.

204) Cāgamanubrūheyya ‒ Phải tăng gia từ bỏ (nết xấu).

205) Santimeva sikkeyya ‒ Phải chú ý đến sự yên lặng hoàn toàn.

206) Lokāmisaṃ pajahe santipekkho ‒ Người chú ý đến sự yên lặng phải từ vật quyến rũ[8] trong đời.

207) Taṃ gaṇheyya yadapaṇṇakaṃ ‒ Điều nào không sai quấy nên nắm lấy điều ấy.

208) Sammukhā yādisaṃ ciṇṇaṃ parammukhāpi tādisaṃ ‒ Trước mặt hành động ra sao, sau lưng hành động như thế.

209) Sanāthā viharatha mā athānā ‒ Các người hãy có nơi dung thân, đừng ở vô căn cứ.

210) Nāññaṃ nissāya jīveyya ‒ Không nên ỷ lại vào kẻ khác.

211) Atītaṃ nānvāgameyya ‒ Đừng nghĩ đến việc đã qua rồi.

212) Nappaṭikankhe anāgataṃ ‒ Không nên ao ước việc chưa đến.

213) Akkhocchi maṃ avadhi maṃ

Ajini maṃ dhāsi me

Ye ca taṃ upanayhanti

Veraṃ tesaṃ na sammati.

Người nào kết án rằng: họ chửi ta, họ giết ta, họ thắng ta, họ đoạt của cải ta, như thế oan trái của người đó hằng không dứt.

214) Indriyāni manussānaṃ

Hitāya ahitāya ca

Arakkhitāni ahitāya ca

Rakkhitāni hitāya ca.

Các căn của người tồn tại để rồi sẽ hữu ích hay là vô ích, nghĩa là không biết bảo vệ là vô ích, biết bảo vệ là hữu ích.

215) Tasmā hi paṇḍito poso

Sampassaṃ atthamattano

Lobhassa na vasaṃ gacche

Haneyya disakaṃ manaṃ.

Khi nhận thấy lợi ích mình, bậc minh triết không theo quyền lực của xan tham, phải trừ diệt lòng tham lam.

216) Paradukkhūpadhānena

Yo attano sukhamicophati

Verasaṃsaggasaṃsaṭṭho

Verā so na pariṃuccati.

Người nào cần sự vui cho mình bằng cách gây khổ cho kẻ khác, người đó phải bận rộn vì sự thù hiềm hằng không khỏi oan trái.

217) Blaṃ cando, balaṃ suriyo

Balaṃ samaṇabrāhmanā

Balaṃ velā samuddassa

Balātibalamitthiyo.

Mặt trăng, mặt trời, Sa-môn, Bà la môn và bờ biển đều có sức mạnh khác nhau, nhưng sức mạnh phụ nữ càng bội phần.

218) Bahunaṃ vata atthāya

Uppajjanti tathāgatā

Itthīnaṃ purisānañca

Ye te sāsanakārakā.

Đức Như Lai ra đời đem lợi ích đến Đại chúng, nghĩa là người nữ, người nam đều nên thực hành giáo huấn của Ngài.

219) Ye vuḍḍhamapaccāyanti

Narā dhammassa kovidā

Diṭṭhe dhamme ca pāsaṃsā

Samparāyo ca suggti.

Người nào sáng trí trong pháp, thành tâm tôn trọng bậc hiền nhân, các người đó hằng được tiến triển trong hiện tại và sẽ thọ sanh lên cõi Trời.

220) Rūpā saddā gandhā rasā

Phassā dhammā ca kevelā

Etaṃ lokāmisaṃ ghoraṃ

Ettha loko vimuchito.

Sắc, tiếng, mùi, vị, đụng chạm và pháp giới chỉ là miếng mồi khủng khiếp đáng sợ, chúng sanh hằng say mê trong những đối tượng đó.

221) Videsevâsaṃ vasato

Jātavedasamenapi

Khamitabbaṃ sapaññena

Api dāsassa tajjitaṃ.

Dầu có trí tuệ rực rỡ tương đương lửa, khi trú ngụ ngoại quốc cũng nên kiên nhẫn với lời đe dọa dù là của tôi tớ.

XIII. Pannavagga ‒ Phần Trí Tuệ

222) Natthi paññāsamā ābhā ‒ Chẳng có ánh sáng nào bằng trí tuệ.

223) Paññā lokasmi pajjoto ‒ Trí tuệ là ánh sáng trong đời.

224) Yogā ve jayatī bhūri ‒ Trí tuệ hằng phát sanh trong mối liên quan.

225) Ayogā bhūrisankhayo ‒ Trí tuệ hết phát sanh là không còn mối tương quan.

226) Sukko paññāpaṭilābho ‒ Sự được trí tuệ sanh ra an lạc.

227) Paññā narānaṃ ratanaṃ ‒ Trí tuệ là quý báu của người.

228) Paññā va dhanena seyyo ‒ Trí tuệ quý báu hơn tài sản.

229) Natthi jhānaṃ apaññassa ‒ Sự tập trung (tư tưởng) không có đến cho người vô trí tuệ.

230) Paññā natthi ajhāyato ‒ Trí tuệ không có đến cho người không tập trung (tư tưởng).

231) Paññā cenaṃ pasāsati ‒ Trí tuệ hằng ủng hộ, điều chỉnh người.

232) Paññāya maggaṃ ataso na vidati ‒ Kẻ lười biếng không gặp đạo trí tuệ.

233) Sussūnaṃ labhate paññaṃ ‒ Lắng tai chân chánh hằng được trí tuệ.

234) Paññāyatthaṃ vipassati ‒ Người có trực giác bằng trí tuệ.

235) Paññāya parisujjhati ‒ Người hằng trong sạch bằng trí tuệ.

236) Paññā hi seṭṭhā kusatā vadanti ‒ Người sáng trí nói rằng: “Trí tuệ là quý nhất”.

237) Paññājivījīvitamāhu seṭṭham ‒ Bậc trí tuệ nói rằng: “Người sống bằng trí tuệ là xuất chúng”.

238) Eko va seyyo puriso sappañño yo bhāsitassa vijānāti atthaṃ ‒ Người có trí tuệ chỉ hiểu biết yếu điểm Phật ngôn một mình cũng là cao quý hơn.

239) Bahūnaṃ vata atthāya.

Sappañño gharamavasaṃ.

Người có trí tuệ trị gia có ích lợi đến phần đông.

240) Sākacchāya paññā veditabbā ‒ Trí tuệ được biết bằng cuộc đàm thoại.

241) Tathattānaṃ niveseyya

Yathā bhūri pavaḍḍhati.

Trí tuệ tăng gia bằng cách nào, phải chỉnh đốn bằng cách ấy.

242) Paññaṃ nappamajjeyya ‒ Không nên buông lung trí tuệ.

243) Jīvatevāpi sappañño

Api vittaparikkhayā

Paññāya ca alābhena

Vittavāpi na jīvati.

Đến hết của cải, bậc trí tuệ vẫn an vui, nhưng thiếu trí tuệ dù có tài sản cũng không ở an được.

244) Paññā hi seṭṭhā kusalā vadanti

Nakkhattarājāriva tārakānaṃ

Sīlaṃ siri cāpi satañca dhammo

Anvāyi kā paññavato bhavanti.

Người sáng trí nói rằng: “Trí tuệ cao quý như mặt nguyệt, cao quý hơn cả tinh tú, cho đến giới, thanh danh và pháp của bậc trí tuệ cũng hằng đi theo hàng có trí tuệ”.

245) Mattāsukha pariccāgā

Passe ce vipulaṃ sukkhaṃ

Caje mattāsukham dhīro

Sampassaṃ vipulaṃ sukhaṃ.

Nếu thấy hạnh phúc lớn do sự thừa nhận phần vui nhỏ, bậc trí tuệ nhận thấy vui lớn cũng từ bỏ vui nhỏ.

246) Yasaṃ ladhāna dummedho

Anatthaṃ carati attano

Attano ca paresañca

Hiṃsāya paṭipajjati.

Kẻ thấp hèn được tước vị rồi hằng gây điều vô ích đến mình, làm hại mình lẫn kẻ khác.

247) Yo ca vassasataṃ jīve

Duppañño asamāhito

Ekāhaṃ jīvitam seyyo

Paññāvantassa jhāyino.

Kẻ vô trí tuệ không có tâm kiên cố, dù sống đến trăm năm cũng không quý bằng bậc trí tuệ trầm tư mặc tưởng sống một ngày.

XIV. Pamadavagga ‒ Phần Sơ Ý

248) Pamādo maccuno padaṃ ‒ Sự sơ ý là con đường chết.

249) Pamādo garahito sadā ‒ Bậc minh triết khiển trách mãi mãi sự sơ ý.

250) Pamādamanuyūnjanti

Bālā dummedhino janā.

Những kẻ si mê có tính đê hèn chỉ hay sơ ý.

251) Te dīgharattaṃ socanti

Ye pamajjanti māṇavā.

Kẻ sơ ý hằng phiền muộn lâu dài.

252) Bahumpi ce sahitaṃ bhāsamāno

Na takkaro hoti naro pamatto

Gopova gāvo gaṇayam paresaṃ

Na bhāgavā sâmaññassa hoti.

Người đã có sơ ý rồi, dù nói nhiều Phật ngôn nhưng không thực hành, hằng không được phần quý yên lặng, như kẻ chăn bò đếm bò cho kẻ khác.

     253) Yo ca pubbepamajjitvā

Pacchā so nappamajjati

Somaṃ lokaṃ pabhāseti

Abbhā mutt ova candinā.

Người nào trước đã sơ ý, về sau không buông lung, người đó khiến đời này xán lạn như vầng trăng ra khỏi đám mây.

XV. Papavagga ‒ Phần Ác

254) Malā ve pāpakā dhammā

Asmiṇ loke paramhi ca.

Ác pháp là dơ bẩn cả đời nầy và đời sau.

255) Dukkho pāpassa uccayo ‒ Sự tích trữ ác đem khổ đến cho.

256) Pāpānaṃ akaranaṃ sukhaṃ ‒ Sự không làm dữ đem vui đến cho.

257) Sakammunā haññati pāpadhammo ‒ Người dơ bẩn, tâm xấu xa hằng chịu khổ vì nghiệp của họ.

258) Tapasā pajahanti pāpakammaṃ ‒ Người hiền bỏ ác nghiệp bằng sự tinh tấn.

259) Dhammaṃ me bhaṇamānassa

Na pāpamupalimpati.

Khi chúng ta nói pháp, ác không nhiễm được.

260) Pāpāni kamāni karonti mohā ‒ Người hay làm ác vì si mê.

261) Natthi akāriyaṃ pāpaṃ musāvādissa jantuno ‒ Kẻ nói dối không làm ác không được.

XVI. Puggalavagga ‒ Phần Người

262) Sādhu kho paṇḍito nāma ‒ Gọi là bậc minh triết là vì hay làm lợi ích được thành tựu.

263) Paṇḍito sīlasampanno jalaṃ aggīva bhāsati ‒ Bậc minh triết có giới hoàn toàn hằng chói lọi như ánh lửa.

264) Anatthaṃ parivajjeti

Atthaṃ gaṇhāti paṇḍito.

Bậc minh triết tránh sự vô ích, chỉ lấy điều hữu ích.

265) Indriyāni rakkhanti paṇḍitā ‒ Các bậc minh triết hằng gìn giữ các căn.

266)  Na uccāvacaṃ paṇḍitā dassayanti ‒ Những bậc minh triết không biểu lộ thái độ cao thấp.

267) Danto seṭṭho manusesu ‒ Trong nhân loại, người đã ức chế tâm rồi là bậc quý nhất.

268) Kusalo ca jahāti pāpakaṃ ‒ Người sáng trí hằng từ bỏ tội lỗi.

269) Nayaṃ nayati medhāvī ‒ Bậc có trí tuệ hằng dẫn dụ trong đường nên dẫn.

270) Adhurāgaṃ na yūnjati ‒ Bậc trí tuệ không bận lòng trong việc vô trách nhiệm.

271) Dhīro bhoge adhigamma sangaṇhāti ca ñātake ‒ Bậc trí tuệ được của cải rồi hằng tiếp đãi thân quyến.

272) Na kāmakāmā lapayanti santo ‒ Những bậc tịnh giả không cảm xúc vì thèm khát ngũ dục.

273) Santo na te ye na vadantidhammaṃ ‒ Kẻ không nói lời đức hạnh, không gọi là bậc tịnh giả.

274) Santo sattahito ratā ‒ Bậc tịnh giả hoan hỉ trong sự ủng hộ chúng sanh.

275) Upasanto sukhaṃ seti ‒ Bậc yên lặng hằng được ở yên.

276) Santo sagga parāyanā ‒ Bậc tịnh giả có cõi trời là nơi dành cho trong tương lai.

277) Anupādā vimuccanti ‒ Những bậc hiền nhân hằng được giải thoát do không cố chấp.

278) Yo bālo maññati bālyaṃ.

Paṇdito vāpi tena so.

Người tự biết mình là ngu dốt là người sáng trí do nhân ấy.

279) Bālo apariṇāyako ‒ Kẻ si mê không nên là người hướng đạo.

280) Asanto nirayaṃ vanti ‒ Kẻ yên lặng hằng không sanh trong địa ngục.

281) Anayaṃ navati dummedho ‒ Kẻ ngu dốt hằng dẫn dụ trong đường không nên.

282) Dhammakāmo bhavaṃ hoti ‒ Người vui thích pháp là người phát đạt.

283) Dhammedessī parābhavo ‒ Kẻ bất mãn là kẻ sa sút.

284) Sakatvā sākato hoti ‒ Người tôn trọng hằng được tôn trọng.

285) Garu hoti sagāravo ‒ Người tôn kính hằng được tôn kính.

286) Pūjako labhate pūjaṃ ‒ Người cúng dường hằng được cúng dường.

287) Vandako paṭivandanaṃ ‒ Người kính lạy hằng được kính lạy.

288) Paṭisankhānabalā bahussutā ‒ Người nghe nhiều có sự quán tưởng là sức mạnh.

289) Vissāsaparamā ñāti ‒ Người được tín nhiệm là thân quyến quí nhất.

290) Natthi loke anindito ‒ Người không bị quở trách chẳng có trong đời.

291) Paribhūto mudu hoti ‒ Người nhu nhược phải bị khinh thường.

292) Atilikkho ca veravā ‒ Người không kiên nhẫn hằng có oan trái.

293) Bahumpi natto bhāseyya ‒ Người đã thương yêu, thích nói nhiều.

294) Duṭṭhopi bahu bhāsayi ‒ Người đã giận thích nói nhiều.

295) Yathāvādī tathākārī ‒ Người ngay thật nói sao làm vậy.

296) Hirinisedho puriso

Koci lokasmi vijjati.

Người chữa cải bằng sự hổ thẹn vốn hiếm có trong đời.

297) Na uyubhūtā vitthaṃ bhaṇanti ‒ Người ngay thật không nói sai sự thật.

298) Brahmati matāpitaro ‒ Cha mẹ là trời phạm thiên (của con).

299) Pubbācariyāti vuccare ‒ Cha mẹ là thầy đầu tiên của con.

300) Āhuneyyā ca puttānaṃ ‒ Cha mẹ là bậc đáng cho các con sùng bái cúng dường.

301) Itthī malaṃ brahmacariyassa ‒ Phụ nữ là nhơ nhuốc của bậc phạm hạnh.

302) Sussusā seṭṭhā bhariyānaṃ ‒ Trong tất cả vợ, vợ nghe theo lời dạy là hơn hết.

303) Yo ca puttānamassavo ‒ Trong các con, con vâng lời là hơn hết.

304) Phātin kariyā aviheṭhayaṃ paraṃ ‒ Chỉ nên làm việc phát đạt, đừng nên làm việc tổn hại người.

305) Guṇāvā cattano guṇaṃ ‒ Người có đức hay gìn giữ đức tính của mình.

306) Rakkheyyānāgataṃ bhayaṃ ‒ Phải ngăn ngừa điều kinh sợ chưa đến.

307) Accayaṃ desayantīnaṃ

Yo ce na paṭiggaṇhati

Kopantaro dosagaru

Sa veraṃ paṭimuccati

Khi có kẻ xin lỗi mà người cố giận trong lòng bởi nặng vì giận, mà không thừa nhận kẻ đó, gọi là người giấu kín oan trái.

308) Asubhāya cittaṃ bhāvehi

Ekaggaṃ Susamahitaṃ

Sati Kayagata Tyatthu

Nibbidabhulo bhava.

Hãy rèn luyện tâm cương quyết chân chánh bằng cách niệm tưởng vật bất tịnh, hãy có trí nhớ chú ý trong thân thể, thì có nhiều sự chán ngán (trong các pháp hành).

309) Evaṃ kicchābhato poso

Pitu aparicārako

Pitarimicchācaritvāna.

Nirayaṃ so uppajjati.

Người được cha mẹ nuôi dưỡng cực nhọc như thế, mà không phụng dưỡng (song thân) cư xử tệ bạc (với cha mẹ) hằng đến địa ngục.

310) Evaṃ mandassa pasassa

Bālassa avijjānato

Sārambhā jāyatekodho

So pitenava dayhati.

Khi giận hằng phát sanh đến người vô minh, vì lòng thịnh nộ, thì họ hằng bị lửa sân thiêu đốt.

311) Onodaro yo sahate jighaccaṃ

Danto tapassī mitapānabhojano

Ahārahe tu na karoti pāpaṃ

Taṃ ve naraṃ samaṇa māhu loke.

Người nào biết kiên nhẫn trong sự đói, người tự chế, có sự cần mẫn, ăn uống có tiết độ, không tạo tội vì thực phẩm được gọi là bực Sa-môn trong đời.

312) Kāme giddhā kāmaratā

Kāmesu adhimucchitā

narā pāpāni katvāna

Npapajjanti duggatiṃ.

Người thèm khát ngũ dục, ưa thích ngũ dục, say mê ngũ dục, gây các tội lỗi hằng sa vào cảnh khổ.

313) Coditā devādūtehi

Ye pamajjanti māṇavā

Te dīgharattaṃ socanti

Hīnakāyūpagā narā.

Những kẻ được người đem tín thức tỉnh rồi mà vẫn buông lung, các kẻ đó tạo ra thân đê hèn phiền muộn lâu dài.

314) Jatithaddo dhanathaddo

Gottathaddo ca yo naro

Saññātiṃ atimaññeti

Taṃ parābhavato mukkhaṃ.

Kẻ nào kiêu căng vì dòng dõi, vì của cải, họ hàng, hằng khinh bỉ thân quyến, đó là nguyên nhân mất giá trị của họ.

315) Taṃ brūhi upasantoti

Kāmesu anapekkhinaṃ

Gantl ā tassa na vijjanti

Atāri so visatikaṃ.

Như Lai gọi người không còn quyến luyến dục tình là bậc tịnh giả, vì họ không dơ bẩn trong các điều trói buộc và qua khỏi ái dục, là nguyên nhân xáo trộn (trong đời).

316) Tejavādi hi naro vicakkhano

Sakkato bahujanassa pūjito

Nārīnaṃ vasañgato na bhāsati

Rāhunā upahatova candimā.

Dù là người có quyền lực, có trí tuệ sắc bén được phần đông sùng bái cúng dường, vì ở trong thế lực của người nữ, người đó hằng không xán lạn như mặt trăng bị nguyệt thực.

317) Na paṇḍitā attasuthassa hetu

Pāpāni kammāni samācaranti

Dukkhenā phuṭṭhā khalitāpi santā

Chandā ca dosā na juhanti dhammaṃ.

Bậc minh triết hằng không tạo nghiệp ác vì nhân vui cho mình, bậc tịnh giả ngẫu nhiên bị khổ cũng không bỏ pháp, do tây vị thương và ghét.

318) Nindāya nappavedheyya

Na uṇṇameyya pasaṇsito bhikkhu

Lobhaṃ Saha Macchariyena

Kodhaṃ pesuṇiyañca panudeyya.

Tỳ khưu không xao động vì bị khiển trách, cũng không bồng bột vì được ca tụng, phải giảm tánh xan tham, keo kiết, sản cấu và xúi giục người chia rẽ.

319) Paṇḍito ca viyatho ca

Vibāhvī ca vicakkhaṇo

Khippam moccti attānaṃ

bhāyitthāgamissati.

Người sáng trí, sắc bén thuyết minh về nhân và không phải nhân và xét thấy rõ quả báo, hằng thoát ly (thống khổ) tức khắc, không sợ quả báo tái lai nữa.

320) Pahāya pañcāva raṇāni cetaso

Upakhilese byapamajja sabbe

Anissito chetvā sinehadosaṃ

Eko care khaggavisaṇakappo.

Người sáng trí bỏ năm pháp cái, diệt trừ tất cả tùy phiền não, đoạn tuyệt thương và ghét, khiến ái dục và tà kiến không chỗ trú, nên trải đi một mình như loài tê giác vậy.

321) Puttāmatthi dhanamatthi

Iti bāto vihāññati

Atta hi attano nātthi

Kuto puttā kuto dhanaṃ.

Kẻ ngu dốt nghĩ rằng có con, có của mới ưu sầu, sự thật chính mình cũng chẳng có, thì con và của từ đâu mà có.

322) Nadhuvā maññatī bālo

Yāva pāpaṃ na paccati

Yada ca paccatī pāpaṃ

Atha dukkhaṃ nigacchati.

Tội chưa cho quả đến đâu, thì kẻ si mê hiểu rằng có vị ngọt đến đó, nhưng tội cho khổ lúc nào, họ hằng gặp khổ lúc đó.

323) Yaṃ taṃ janapadaṃ yāti

Nigame rājadhāniyo

Sabbattha pūjito hoti

Yo mittānaṃ na dubbhati.

Kẻ nào không hại bạn, kẻ đó đi đến khu vực nào, địa phương nào hay thủ đô nào cũng hằng có người cúng dường trong các nơi.

324) Yato ca hoti pāpiccho

Ahiriko anādaro

Tato pāpaṃ pasavati

Apāyaṃ teca gacchati.

Kẻ mong mỏi xấu xa, không hổ thẹn, không hộ pháp, do nhân nào họ hằng gặp điều khổ sở, đến cảnh khổ vì nhân ấy.

325) Yamhā dhammaṃ vijāneyya

Sammāsambuddhadesitaṃ

Sakkaccaṃ Naṃ Namasseyya

Aggthutaṃ va btahmano.

Người nào hiểu rõ pháp mà đấng Chánh Đẳng Chánh Giác đã giảng thuyết rồi, từ nhân vật nào, thì phải tôn trọng nhân vật đó như tín đồ bà la môn giáo cúng dường thần lửa vậy.

326) Yassa pāpakaṃ kataṃ kammaṃ

Kusalena pithīyati

Somaṃ lokaṃ pabhāseti

Abbhã muttova candimā

Kẻ nào tạo nghiệp dữ rồi, bỏ dữ về lành, kẻ đó làm cho đời được xán lạn, như mặt nguyệt ra khỏi đám mây vậy.

327) Yassa rukkhassa chāyāya

Nisīdeyya sayeyya vā

Na tassa sãkhaṃ bhañjeyya

Mittadubbo hi pāpako.

Người nằm hoặc nghỉ nơi cội cây nào, không nên phá gãy cành cây đó, bởi kẻ hại bạn là kẻ hèn hạ.

328) Ye na kāhanti ovādam

Narā buddhena desitaṃ

Byasanaṃ te gamissanti

Rakhasīhiva vāṇijā.

Kẻ nào không thực hành giáo pháp của bậc Giác Ngộ đã thuyết, họ sẽ bị sự tổn hại như người thương mãi bị thiệt hại bởi kẻ đánh lừa.

329) Yo cattānaṃ samukkaṃse

Pare ca avajānati

Nihīno sena mānena

Taṃ jaññā vasalo iti

Kẻ nào là hạng thấp hèn mà tự cao và khinh thường người khác, vì tự kiêu, thì phải biết rằng đó là hạng người đê tiện.

330) Yo ca sīlañca pañữ ñca

Sutancattani passati

Ubhinnamatthaṃ catati

Attano ca parassa ca.

Người nào thấy: giới văn[9] trong chính mình, người đó hằng thực hành hai lợi ích cho mình và kẻ khác.

331) Yo ca mettaṃ bhāvayati

Appamānaṃ paṭissato

Tanū sayojanā honti

Passato upadhikkhayaṃ.

Người nào có trí nhớ tỉ mỉ, niệm pháp bác ái vô lượng kiết sử [10] của người đó, hằng hao mòn tiêu diệt và tâm luyến ái nhẹ nhàng.

332) Yo ve kataveññū katavedi dhīro

Kalyāṇamitto dalhabhatti ca hoti

Dukkhitassa sakkacca karon kiccaṃ

Tathāvidaṃ sapurisaṃ vadenti.

Bậc trí tuệ là người: tri ân và báo ân;  có bạn thân thiết; tận tâm giúp bạn khi thiếu thốn. Người như thế gọi là bậc tịnh giả.

333) Yo hoti byatto ca visārato ca

Buhussuto dhamadharo ca hoti

Dhammassa hoti anudhammacārī

Sa tādiso vuccaṃ sanghasobhaṇo.

Người sáng trí can đảm là bậc đa văn, hộ pháp và thực hành thích hợp pháp, như thế gọi là xui nên đoàn thể được xán lạn.

334) Sace indriyasampanno

Santo santipade rato

Dhāreti antimaṃ dehaṃ

Jetvā māraṃ savāhanaṃ.

Người có ngũ căn đầy đủ, yên lặng và hoan hỉ trong sự yên lặng mới gọi là thắng ma vương, cả quân ma và duy trì thân thể cho đến ngày cuối cùng.

335) Sace bhāyatha dukkhassa

Sace vo dukkhamappivaṃ

Mā kattha pāpakaṃ kammaṃ

Āvī vā yadi vā aho.

Nếu người sợ khổ, nếu người không thích khổ, thì đừng tạo nghiệp dữ cả trong nơi trống trải và khuất lấp.

336) Sabbā disā anuparigammena cetasā

Nevajjhāgā piyataramattanā kvaci

Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ

Tasmā na hīmse paraṃ attakāmo.

Ta đã tầm khắp hướng rồi cũng không gặp một người nào thương yêu mình hơn chính mình, cho đến kẻ khác cũng chính họ là nơi trìu mền nhất. Vì thế nên người yêu mình không nên làm hại kẻ khác.

337) Salābhạṃ nātimaññeyya

Maññesaṃ pihayañcare

Aññesaṃ pihayaṃ bhikkhu

Samādhiṃ nādhigacchati.

Không nên khinh suất lợi của mình, không nên hướng đến lợi kẻ khác, Tỳ khưu mong mỏi lợi của người hằng không đạt đến thiền định.

338) Sarattā kāmabhogesu

Giddhā kāmesu mucchitā

Atisāraṃ na bujjhanti

Macchā khippaṃva oḍḍitaṃ. 

Người say đắm thọ dụng dục lạc, quyến luyến dục lạc, hằng không biết tự mình vi phạm, như loài cá bướng bỉnh vào lờ mà không biết mình vậy.

339) Evaṃ buddhaṃ sarantānaṃ

Dhammaṃ sanghañca bhikkhavo

Bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā

Lomahaṃso na hessati.

Nầy các thầy tỳ khưu! Khi người tưởng đến Phật, Pháp, Tăng như vậy, thì không có sự kinh sợ, sững sờ.

XVII. Punnavagga ‒ Phần Phước

340) Puññaṃ corehi dūrahaṃ ‒ Kẻ cướp đoạt phước không được.

341) Puññaṃ sukhaṃ jīvitasanghayambi ‒ Phước đem an vui đến trong giờ mạng chung.

342) Sukho puññassa uccayo ‒ Sự tích trữ phước đem vui đến cho.

343) Puññāti paralokasmiṃ

Patiṭṭna honti paṇisṃ.

Phước là nơi dung thân của chúng sanh trong đời sau.

344) Idha nandati pecca nandati

Katapuñño ubhayattha nandati

Puññaṃ me katanti nandati

Bhiyyo nandati sugatiṃ gato.

Người đã làm phước hằng vui thích trong đời này, chết rồi hằng vui thích, gọi là vui thích trong cả hai nơi; họ hằng vui thích rằng: “Ta đã tạo phước để dành rồi, đi đến nhàn cảnh cũng vui thích bội phần”.

345) Māvamaññetha puññassa

Na mattaṃ agamissati

Uddabindunipātena udakumbhapi pūrati apūrati dhīro puññassa thokaṃ thokampi ācinnaṃ.

Không nên khinh suất rằng phước có ước lượng ít, không cho quả, nồi nước có thể đầy nước được do giọt nước rơi xuống thế nào, bậc có trí tuệ tích trữ phước, mỗi khi một ít, thì cũng đầy phước vậy.

346) Puññance puriso kayirā

Kayirāthenaṃ punappunaṃ

Tamhi chandaṃ kariyātha

Sukho puññasso uccayo.

Nếu người phải làm phước thì nên làm cho đều, nên làm cho vừa lòng trong phước, vì sự chất chứa phước đem vui đến cho.

347) Sahāyo atthajātassa

Hoti mittaṃ punappunaṃ

Sayaṃ katāni puññāni

Taṃ mittaṃ samparāyikaṃ.

Bạn là người hằng giúp việc khi người hữu sự, phước mà tự người đã tạo, phước ấy là bạn trong vị lai.

XVIII. Maccuvagga ‒ Phần Tử Thần

348) Sabhaṃ bhedapariyantaṃ

Evaṃ maccānaṃ jīvitaṃ.

Sanh mệnh của chúng sanh như đồ đựng bằng đất, chỉ đến cuối cùng là lũng bể.

349) Appakancidaṃ jīvitamāhu dhīrā ‒ Bậc trí tuệ nói rằng sanh mệnh nay ngắn ngủi.

350) Jarūpanītassa na santi tāṇā ‒ Khi chúng sanh bị cái già đến rồi, thì chẳng có ai ngăn ngừa được.

351) Na mivvamānassa bhavanti tāṇā ‒ Khi chúng sanh chết chẳng có ai ngăn ngừa.

352) Na miyyamāñaṃ dhanaṃanvedī kīñci ‒ Của cải chút ít cũng chẳng dính theo người chết.

353) Na cāpi vittena jaraṃ vihanti ‒ Trừ cái già bằng của cải là không được.

354) Aḍḍhā ceva daliddā ca

Sabbe maccuparāyano.

Cả người giàu lẫn người nghèo chỉ có sự chết ở phía trước mặt.

355) Accayanti ahorattā

Jīvataṃ uparujjhati

Āyu khīyati maccānaṃ

Kunnadīnamva odakam.

Ngày đêm hằng trôi qua, sinh mệnh hằng hao mòn, tuổi thọ của chúng sanh hằng tiêu hết, như nước ở khe hằng khô cạn vậy.

356) Daharā ca mahantā ca

Yebālā ye ca paṇḍitā

Sabbe maccuvassam yanti

Sabbe maccuparāyanā.

Cả trẻ lẫn già, kẻ si mê, bậc minh triết đều mắc trong quyền lực của tử thần, chỉ có sự chết phía trước.

357) Na antalikkhe na sumuddamajjhe

Na pubbatānaṃ vivaram pavīsam

Na vijjatī so jagatippadeso

Yatraṭṭhitam nappasaheyya maccu.

Cư ngụ trên hư không, giữa biển, vào đến kẹt đá cũng chẳng khỏi tử thần được. Trong khắp nơi cũng chẳng thoát được sự chết áp bức.

358) Yathā daṇḍena gopālo

Gāve pājeti gocaraṃ

Evaṃ jarā ca maccu ca

Āyuṃ pājenti pāninaṃ.

Kẻ chăn bò hằng đuổi bày bò đi đến nơi cho chúng ăn bằng cây hèo, thế nào, thì cái già, cái chết hằng đánh đuổi tuổi thọ của chúng sanh như vậy.

359) Yathāpi kumbha kārassa

Katā mattikabhājanā

Sabbe bhedapariyantā

Evaṃ maccāna jīvitaṃ.

Đồ đựng mà thợ gốm làm bằng đất đến cuối cùng đều bị lủng bể thế nào, thì sanh mệnh chúng sanh cũng thế ấy.

XIX. Mittagga ‒ Phần Bạn

360) Mātā mittaṃ sake ghare ‒ Mẹ là bạn trong nhà.

361) Sahāyo atthajātassa

Hoti mittaṃ punappunaṃ.

Bạn bè là người thường phát sanh lợi ích khi hữu ích.

362) Sabbattha pūjito hoti

Yo mittānaṃ na dubbhati.

Người không hại bạn thường được cúng dường trong mọi nơi.

363) Sabbe amitte tarati

Yo mittānaṃ na dubbhati.

Người không hại bạn hằng vượt qua kẻ thù.

364) Pāpamitto pāpasakho

Pāpa acāra goraco.

Có bạn ác hằng có cử chỉ và nơi vãng lai hèn hạ.

365) Natthi bāle sahāyatā ‒ Niềm bạn bè hằng không có trong kẻ si mê.

366) Atthamhi yātamhi sukhā sahāyā ‒ Khi hữu sự cần dùng, bạn hữu hằng đem vui đến cho.

367) Sace labhetha nipakaṃ

Sahāya careyya tenattamano satimā.

Nếu được bạn thận trọng chú ý thì nên hài lòng, có tri nhớ đi cùng họ.

368) No ce labhetha nipakaṃ

Sahāyaṃ eko care na ca pāpāni kayirā.

Ví bằng không được bạn tận tâm thì phải đi một mình và không nên làm tội lỗi.

XX. Yacavagga ‒ Phần Khất

369) Na ce yācanti sappaññā ‒ Những người có trí tuệ không xin.

370) Yácako appiyo hoti ‒ Người xin hằng là nơi không vừa lòng (của thí chủ).

371) Yācaṃ adadamappiyo ‒ Người bị xin, khi không cho vật mà họ xin, hằng là nơi không hài lòng (của kẻ xin).

372) Desso ca hoti atiyācanāya ‒ Người đáng ghét vì xin quá mực.

373) Na taṃ yāce yassa piyaṃ jigiṃse ‒ Không nên xin vật mà mình đã biết là vật vừa lòng của người ta.

 

XXI. Rajavagga ‒ Phần Vua

374) Rājā mukhaṃ manussanaṃ ‒ Đức vua là đứng đầu dân chúng.

375) Sabbāṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ hothi

Rājā ce hoti dhammiko.

Nếu Đức vua là bậc hộ pháp thì toàn dân được an lạc.

376) Kuddhaṃ appaṭikujjhanto

Rājā raṭṭhassa pūjito.

Đức vua không sân với kẻ sân, thì được nhân dân cúng dường.

377) Puttakaṃ viya rājāno

Pajaṃ rakkhantu sabbadā.

Đức vua hãy bảo vệ quốc dân, cho giống như cha thương con mãi mãi.

XXII. Vacavagga ‒ Phần Ngôn

378) Mokkho kalyāṇiyā sādhu ‒ Lời nói lành khiến lợi ích được thành tựu.

379) Mutvā tapati pākikaṃ ‒ Người nói dữ hằng phiền muộn.

380) Duṭṭhassa pharusā vācā ‒ Người sân hay nói lời thô lỗ.

381) Abhūtavedī nirayaṃ upeti ‒ Kẻ nói dối hằng vào đến địa ngục.

382) Saṃvohārena soceyyaṃ veditabhaṃ ‒ Nên biết người trong sạch bằng lời nói.

383) Vācaṃ muñceyya kalyāṇiṃ ‒ Nên phát biểu lời thanh nhã.

384) Manuññameva bhāseyya ‒ Chỉ nên nói lời làm hài lòng.

385) Na hi muñceyya pāpikaṃ ‒ Không nên nói lời tội lỗi.

386) Kalyāṇameva muñ eyya

Na hi mũnceyya pãpikaṃ

Mokkho kalyāṇiyā sadhu

Mutvā tappati pāpikaṃ.

Phải nói lời lành, không nên phát biểu bằng giọng bất nhã, sự bày tỏ lời êm tai khiến lợi ích, được kết quả, kẻ thốt lời thô lỗ hằng ưu sầu.

387) Piyavācameva bhāseyya

Vā vācā patinanditā

Yaṃ anādãya pāpāni

Paresaṃ bhāsate piyaṃ.

Người nên nói lời thanh nhã cho thính giả hài lòng, vì người lành hằng không vừa lòng lời thô lỗ, chỉ nên phát biểu lời tao nhã thôi.

388) Yañhi kayirā tanhi vade

Yaṃ na kariyā na taṃ vade

Aka rontam bhāsamānaṃ

Parijānanti paṇḍitā.

Người làm việc gì, mới nên nói tới việc đó, không làm việc gì, không nên nói đến việc đó, bậc minh triết hằng phân biệt người không làm mà chỉ nói.

389) Yo nindiyaṃ pasaṃsati

Taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo

Vicinati mukhena so kaliṃ

Kalinā tena sukhaṃ na vindati.

Kẻ nào ca tụng người đáng khiển trách hoặc quở trách, người đáng tán dương, kẻ đó hằng tích trữ tội bằng miệng, thì không được vui, vì lẽ đó.

XXIII. Viriyavagga ‒ Phần Cần Mẫn

390) Viriyena dukkhamacceti ‒ Người thoát khổ được, nhờ bởi sự cần chuyên.

391) Akitāsu vinde hadayassa santim ‒ Người không lười phải được yên tâm.

392) Ajjeva kiccamātappaṃ ‒ Phải gấp làm việc cho cần mẫn trong ngày nay.

393) Kareyya yoggaṃ dhuvamappamatto ‒ Người không sơ ý nên cương quyết làm cho cần mẫn.

394) Yathā yathā yatha Iabhetha atthaṃ

Tathā tathā tattha parakkameyya.

Được lợi ích trong nơi nào, bằng cách nào, nên cần mẫn trong nơi đó, bằng cách đó.

395) Yo ca vassasataṃ jīve

Kusīto hīnavīriyo

Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

Viriyaṃ ārabhato dalhaṃ.

Kẻ nào lười biếng mà trụy lạc thấp hèn, dù sống đến trăm năm cũng không bằng người có tinh tấn, tâm kiên cố sống một ngày, vẫn cao quý hơn.

XXIV. Saccavagga ‒ Phần Chân Thật

396) Saccaṃ have sadhutaraṃ rasānaṃ ‒ Vị chân thật quả nhiên quí hơn tất cả vị.

397) Saccaṃ ve amatā vācā ‒ Lời nói chân thật là lời nói bất diệt.

398) Saccena kittiṃ pappoti ‒ Người được danh vọng nhờ sự thật.

399) Saccamanurakkheyya ‒ Phải nên gìn giữ sự thật.

XXV. Veravagga ‒ Phần Thù

400) Ye varaṃ upanayhanti

Veraṃ tesaṃ na sammati.

Người kết oan trái là gây oan trái.

401) Ye varaṃ nūpanayhanti

Veraṃ tesūpasammati.

Người không kết oan trái, được yên lặng.

402) Averena ca sammati ‒ Oan trái được yên lặng bằng không kết oan trái.

XXVI. Santutthavagga ‒ Phần Hỷ Duyệt)[11]

403) Santuṭṭhī paramaṃ dhanaṃ ‒ Sự hỷ duyệt là của quý nhất.

404) Tuṭṭhī sukhā yā itarītarena ‒ Sự vừa lòng với đồ dùng tùy có tùy được đem an vui đến cho.

405) Sukho viveko tuṭṭhassa sutadhammassa passato ‒ Sự vắng lặng của người hỷ duyệt nghe và thấy pháp rõ rệt đem vui đến cho.

406) Yaṃ laddhaṃ tena tuṭṭhabbaṃ ‒ Được vật gì nên vừa lòng với vật ấy.

407) Salādhaṃ nātimaññeyya ‒ Không nên khinh suất lợi của mình.

XXVII. Samanavagga ‒ Phần Sa-môn

408) Samaṇīdba aranā loke ‒ Bậc Sa-môn trong giáo pháp nầy không phải là người thù trong đời.

409) Na hi pabbajito parūpaghātī

Samaṇo hoti paraṃ viheṭhanyanto.

Bậc xuất gia giết hại người không phải là Sa-môn.

410) Asaññato pabbajito na sādhu ‒ Bậc xuất gia không chế ngự là không tốt.

411) Apeto damasaccena na so kāsāvamarahati ‒ Người nào không tự ức chế và không chơn thật thì không nên mặc y cà sa.

412) Subhāsitabdhajā isayo ‒ Những bậc đạo sĩ có thiện ngôn là biểu hiện.

413) Samaṇo assa sussamano ‒ Bậc Sa-môn thì phải là Sa-môn chân chánh.

414) Sāmaññe samaṇo tiṭṭhe ‒ Bậc Sa-môn phải trú trong sự phù hợp của Sa-môn.

XXVIII. Samaggivagga ‒ Phần Hòa

415) Sukhā sanghassa sāmaggī ‒ Sự hòa thuận của đoàn thể tạo cho an vui.

416) Sabbesaṃ sanghabhūtānaṃ

Samaggī vuḍḍhisādhikā.

Sự hòa thuận của tất cả đoàn thể khiến sự phát đạt được tăng gia.

XXIX. Silavagga ‒ Phần Giới

417) Sīlaṃ yāva jarā sādhu ‒ Giới cho lợi ích được thành tựu đến già.

418) Sukaaṃ yāva arā sīlaṃ ‒ Giới cho điều vui đến già.

419) Sīlam loke anuttaro ‒ Giới là vô song trong đời.

420) Saṃvāsena sīlam veditabbam ‒ Giới được biết do sự ngụ chung cùng nhau.

421) Sādhu sabbattha samvaro ‒ Sự ức chế trong mọi nơi là quý.

422) Saññamato veram na cīyati ‒ Khi cố ý thận trọng thì thù oán không phát sinh.

423) Sīlam rakkheyya medhāvī ‒ Bậc trí tuệ nên trì giới.

424) Ãdi sīlam patiṭṭhā ca

Kalyāṇānañca matukaṃ

Pamukhaṃ sabbadham mānaṃ

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Giới là nơi nương mình đầu tiên, là mẹ của tất cả thiện pháp, là đứng đầu các pháp, vì thế phải trau dồi giới cho tinh khiết.

425) Idheva kittiṃ labhati

Pecca sagge ca sumaṇo

Sabbattha sumano dhīro

Sīlesu susamāhito.

Bậc trí tuệ đã kiên cố trong giới hằng có danh dự trong đời nầy, thác rồi hằng hớn hở trong cõi Trời, gọi là được hài lòng trong hai cõi.

426) Idheva nindaṃ labhati

Peccāpāye ca dummano

Sabbattha dummano bālo

Sīlesu asamāhito.

Kẻ ngu dốt không trú vững trong giới, hằng bị khiển trách trong đời nầy, chết rồi hằng thê thảm trong khổ cảnh, gọi là thất vọng trong hai nơi.

427) Kāyena vācāya ca yodha sannato

Manasā ca kīñci na karoti pāpaṃ

Na attahetu alikaṃ bhāṇāti

Tathāvidhaṃ sīlavantaṃ vadanti.

Người nào trong đời nầy ức chế thân, khẩu, ý, không làm tội gì và không nói dối, như thế gọi là người có giới.

428) Tasmā ha nārī ca naro ca sīlavā

Aṭṭhangupetaṃ upavasasuposathaṃ

Puññāni katvāna sukhudriyāni

Aninditā saggamupenti ṭhāna.

Cho nên, nữ và nam, người có giới, thọ bát quan trai gồm có 8 chi làm phước có quả vui, mới không bị quở trách, thì hằng đến cõi trời.

429) Na vedā samparāyāa

Na jāti napi bandhavā

Sakañca sīlasaṃsuddham

Samparāyasukhā vahaṃ.

Bùa chú, phù pháp, thân quyến không đem vui đến cho đời sau được, phần giới của người được trong sạch rồi mới đem hạnh phúc đến cho trong cõi sau.

430) Yo ca vassasataṃ jīve

Dussīlo assamāhito

Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

Sīlavantassa jhāyino.

Người có giới tham thiền, dù sống một ngày cũng cao quý hơn kẻ phá giới không có tâm kiên cố sống đến trăm năm.

431) Sīlamevidha sikketha

Asmiṃ loke susikkhitaṃ

Sīlaṃ hi sabbasampattiṃ

Upanāmeti sevitaṃ.

Nên học tập giới trong đời nầy, vì giới được học tập kỹ càng và thực hành rồi trong đời nầy, hằng đem đến tất cả giai đoạn thiền định.

432) Sīlaṃ rakkheyya medhāvī

Patthayāno tayo sukhe

Pasaṇisaṃ vittilābhañca

Pecca sagge pamodanaṃ.

Bậc trí tuệ khi mong mỏi ba điều an lạc: sự khen ngợi, sự được của cải và được vui cõi trời, thì phải trì giới.

433) Sīlavā hi bahū mitte

Saññamenādhigacchati

Dussīlo pana mittehi

Dhaṃsato pāpamācaraṃ.

Người có giới hằng được nhiều bạn do sự ức chế (thân, khẩu). Phần kẻ phá giới hành động xấu xa hằng chia rẽ bạn bè.

XXX. Sevanavagga ‒ Phần Kết Giao

434) Aticiraṃ nīvāsena piyo bhavati appiyo ‒ Bởi ngụ chung cùng nhau quá lâu, khiến người thương yêu cũng bất mãn.

435) Dukkho pālehi saṃvāso

Amitteneva sabbadā

Ngụ cùng người si mê hằng đem khổ đến cho, như ở chung với kẻ thù.

436) Sukho have sappurisena sangamo ‒ Kết giao với bạn tịnh giả đem an vui đến cho.

437) Na pāpajanasaṃsevī

Accantaṃ sukhamedhati.

Người không kết giao với kẻ dữ hằng được vui mà thôi.

438) Bālasangatacārī hi dīghamaddhmana socati ‒ Người giao kết với kẻ si mê hằng phiền muộn lâu dài.

439) Yattha verī nivisati na

Vase tattha paṇḍito.

Kẻ thù ở nơi nào, bậc minh triết không nên ngụ nơi đó.

440) Sanketheva amittasmiṃ ‒ Phải ngờ vực kẻ thù.

441) Mitasmimpi na vissase ‒ Dù bạn bè cũng không nên tin cậy.

442) Na vissase avissaṭṭhe ‒ Không nên tin cậy người không tâm phúc.

443) Vissaṭṭhepi na vissase ‒ Dù là với người thân tín cũng không nên quá tín nhiệm.

444) Nāsmase ka tapāpamhi ‒ Không nên tin cậy kẻ làm ác.

     445) Nāsmase attatthapaññamhi ‒ Không nên tín nhiệm kẻ lợi kỷ.

     446) Ãtisantepi nāsmase ‒ Không nên tin cậy kẻ giả vờ kín đáo.

     447) Na santhaṃvaṃ kāpurisena kayirā ‒ Không nên thân mật với kẻ xấu.

     448) Māssu bālena sabbadā ‒ Đừng kết giao với kẻ si mê, vì họ tương tự như kẻ thù vậy.

449) Asante nūpaseveyya

Santa seveyya paṇḍito

Asanto nirayaṃ nenti

Santo pāpenti sugatiṃ.

Bậc minh triết không nên giao kết với bậc vô trí thức, phải thân cận cùng bậc tịnh giả, vì bậc vô trí thức hằng dẫn đến địa ngục, người tịnh giả hằng dắt đến cõi trời.

450) Pāpamitte vivajjetvā

Bhajeyyūttamapuggale

Ovade cassa tiṭṭheyya

Patthento acalaṃ sukhaṃ.

Người mong sự vui vững bền phải lánh xa bạn ác, chỉ kết giao với bậc ưu tú và nên tuân lời dạy của ngài.

451) Yādisaṃ kurute mittaṃ

Yadisañcūpasevati

Sopi tādisato hoti

Sahavāso hi tādiso.

Người kết giao với kẻ nào, làm bạn với người thế nào, họ sẽ như vậy, vì sự chung đụng với nhau hằng là như thế.

452) Saddhena ca pesalena ca

Paññavatā bahussutena ca

Sakhitaṃ hi karayya paṇḍito

Bhaddo sappurisehi sangamo.

Bậc minh triết kết giao với người có sự tín ngưỡng, có giới, đáng thương yêu, có trí tuệ và là bậc đa văn, vì sự kết bạn với người ngoan là điều thạnh vượng.

XXXI. Sativagga ‒ Trí Nhớ

453) Sati lokasmi jāgaro ‒ Trí nhớ là pháp đánh thức trong đời.

454) Satimato sadā bhaddaṃ ‒ Người có trí nhớ hằng được tấn phát.

455) Satimā sukhamedhati ‒ Người có trí nhớ thường được vui.

456) Satimato suve seyyo ‒ Người có trí nhớ mỗi ngày hằng ưu tú.

457) Rakkhamāno sato rakke ‒ Người quan sát nên có trí nhớ bảo vệ.

XXXII. Saddhãvagga ‒ Phần Tín

458) Saddhā bandhati pātheyyaṃ ‒ Đức tin sưu tập sự dự phòng (tức thiện pháp).

459) Saddhā sādhu patiṭṭhitā ‒ Đức tin vững chắc rồi khiến lợi ích được thành tựu.

460) Sukhā saddhā patiṭṭhitā‒ Đức tin chắc chắn rồi đem vui đến cho.

461) Sadhīdha vittaṃ purisassa setthaṃ‒ Đức tin là của báu của người trong đời này.

462) Ekopi saddho medhāvī

Assaddhānaṃ ca ñatinaṃ

Dhammaṭṭho sīlassampanno

Hoti atthayā bandhunaṃ.

Người có đức tin, có trí tuệ, trú trong pháp đầy đủ giới hạnh, dù là một mình, hằng có lợi ích đến thân quyến và bạn bè.

463) Dassanakāmo sīlavataṃ

Saddhammaṃ sotumicchati

Vineyya maccheramalaṃ

Sa ve saddhoti vuccati.

Người nào trông mong thấy bậc có giới, ước ao nghe chánh pháp, từ bỏ tâm dơ bẩn, keo kiết, người đó gọi là bậc có đức tin.

464) Saddho sīlena sampanno

Yaso bhogasamappito

Yaṃ yaṃ padessaṃ bhajati

Tattha tattheva pūjito.

Người có đức tin, gồm cả giới, có tước vị, đi đến xứ nào, hằng được cúng dường trong xứ đó.

465) Ye naṃ dadanti saddhāya

Vippasannena cetasā

Tameva nanaṃ bhajati

Asmiṃ loke paramhi ca.

Những kẻ nào có tâm trong sạch cho cơm bằng đức tin, các kẻ đó được cơm cả đời nầy sang đời khác.

 

 

 

Hồi hướng

Phần phước pháp thí này chúng tôi thành kính hồi hướng quả phúc lành này đến các bực ân nhân của chúng tôi nhất là thầy tổ đã dày công dạy bảo chúng tôi trở nên người chánh kiến. Cầu xin cho các ngài luôn luôn được nhiều sức khỏe tu hành tinh tấn đắc được đạo quả Niết-bàn, nhứt là Ngài Hộ Tông đã dày công biên dịch ra quyển kinh này; cầu xin chư thiên hộ trì đến Ngài được vạn sự như ý.

Phần phước nữa chúng tôi cúng hiến đến các ngài Tứ đại thiên vương hộ trì bốn châu thiên hạ và tất cả chư thiên và chúng sanh trên mười muôn triệu thế giới ta bà luôn luôn được tăng phần an vui, hãy hộ trì tất cả thế giới, nhứt là đất nước Việt Nam sớm được hòa bình thịnh vượng.

Với phần pháp thí này chúng tôi thành kính hồi hướng đến ông bà, cha mẹ chúng tôi đã quá vãng cho được sanh lên nhàn cảnh, còn hiện tiền cầu xin cho các vị đó được tăng long phước thọ và có đức tin nơi tam bảo, sớm gặp được chánh pháp để tu hành được mau giải thoát cho hết khổ, được an vui.

Thành kính

‒ Dứt tác phẩm Phật ngôn (Pl.2513-Dl.1970)‒

 

 

 

[1]atta: adati sukhadukkham anubhavatiti > attā

[2] Appamãdo: appamajjanam > appamado.

[3]  Kilesa: kilisanti tehiti> kilesa

   Tham: tham tiền của, ăn uống.

 

 

[4] Lậu hoặc (asva): phiền  não khiến chúng sanh say mê lầm lạc trong nẻo luân hồi.

[5] Kodha: kujjhanam >kodho.

[6] Doso: dussamam >doso: Giận rồi làm hại kẻ khác.

[7] Thân, khẩu, ý trong sạch.

[8] Tài, sắc, lợi, danh.

[9] Văn: điều được nghe.

[10] Phiền não sai khiến chúng sanh trong vòng luân hồi (sanyojana).

[11] Tình trạng vừa lòng vui thích đồ dùng mình có. Contentment is betther than riches (an phận hơn giàu sang).

icon-pdf-2.jpg (28 KB)

Bình luận
| Mới nhất